(vasep.com.vn) Sáng ngày 20/4/2021, tại Hà Nội, VCCI đã tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo Chương trình cải cách môi trường kinh doanh Việt Nam: Góc nhìn từ doanh nghiệp (báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 02 năm 2020 và Nghị quyết 35 năm 2016 của Chính phủ).
Báo cáo này do VCCI thực hiện trong khuôn khổ Dự án tăng cường tiếng nói của doanh nghiệp trong việc giám sát và thực hiện tái cơ cấu kinh tế (thuộc Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam – Aus4Reform do Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia – DFAT tài trợ).
Hàng thủy sản từ đông lạnh tới chế biến sâu đều phải kiểm dịch
Tại hội thảo này, ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng Thư ký VASEP đánh giá cao những nội dung của hai nghị quyết nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ chính sách giúp cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Trong đó, thực hiện nội dung của NQ02 năm 2020 giao Bộ NN&PTNT cũng đã chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính rà soát, sửa đổi Thông tư số 285/2016/TT-BTC về cách tính phí, lệ phí trong công tác thú y nhằm giảm chi phí bất hợp lý cho các doanh nghiệp thủy sản.
Tuy nhiên, một số nội dung tại nghị quyết vẫn chưa được thực hiện triệt để và có hiệu quả, trong đó, theo phản ánh từ thực tế, Bộ NN&PTNT chưa thực hiện áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, phân luồng ưu tiên, công nhận lẫn nhau trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hoạt động xuất nhập khẩu thủy sản; hướng dẫn và phân biệt giữa kiểm dịch và kiểm tra an toàn thực phẩm; hướng dẫn cụ thể, rõ ràng về cách thức kiểm tra (nhất là kiểm tra cảm quan), đảm bảo thực hiện nhất quán, tránh phát sinh chi phí cho doanh nghiệp.

Nội dung quan trọng này đã nằm trong NQ02 trong 2-3 năm nhưng cho tới nay vẫn chưa có sửa đổi cho phù hợp, trong đó có hoạt động kiểm dịch sản phẩm thủy sản NK. Ông Nam nhấn mạnh, từ năm 2010 cho tới nay, Bộ NN&PTNT đã ra đến ba thông tư: Thông tư 06; Thông tư 26 và Thông tư 36 quy định về kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật thủy sản nhưng càng ngày danh mục hàng hóa phải kiểm dịch càng nhiều lên. Và khi VASEP nhận được bản Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 15/2018/TT-BNNPTNT ngày 29/10/2018 (mã số HS đối với danh mục hàng hoá thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ NNPTNT) thì càng “giật mình” hơn khi thấy rằng 100% hàng thủy sản từ mã HS 03 đến hàng chế biến sâu HS 16 NK đều phải kiểm dịch theo Luật Thú y và Luật ATTP.
Ông Nam nhắc lại, ngày 19/02/2021, VASEP đã gửi Công văn số 14/CV-VASEP tới Bộ NN&PTNT, Vụ Pháp chế, Cục Thú y (Bộ NN&PTNT) góp ý Thông tư thay thế TT 15/2018/TT-BNNPTNT kiến nghị không đưa các sản phẩm chế biến từ động vật, sản phẩm động vật thuỷ sản vào danh mục kiểm dịch theo Luật Thú y.
Theo VASEP, để thực hiện mục tiêu thực hiện các Nghị quyết cải cách của Chính phủ (NQ 19/2018, NQ 19/2017, NQ 02/2020 và NQ 02/2021), Hiệp hội kiến nghị Bộ NN&PTNT không đưa các sản phẩm thuỷ sản chế biến từ động vật-sản phẩm động vật hoặc sản phẩm có chứa “sản phẩm động vật” (hàng khô, đồ hộp, nấu chín, ăn liền, đông lạnh…) vào danh mục phải kiểm dịch (bệnh) theo Luật Thú y, trừ các sản phẩm sống, tươi sống, ướp lạnh. Các sản phẩm chế biến kể trên chỉ chịu kiểm soát theo các quy định của Luật ATTP.
Nghị quyết số 02/NQ-CP (ngày 01/01/2020) của Chính phủ:
Tiếp tục thực hiện cải cách toàn diện công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành và kết nối Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, các bộ, cơ quan ngang bộ:
“Hoàn thành rà soát, cắt giảm thực chất 50% số mặt hàng thuộc danh mục mặt hàng kiểm tra chuyên ngành. Trong quý I năm 2020 công bố công khai, đầy đủ trên Trang thông tin điện tử của bộ quản lý chuyên ngành về danh mục với mã HS tương ứng kèm theo Bảng so sánh danh mục mặt hàng quản lý, kiểm tra chuyên ngành trước và sau khi cắt giảm”.
Bất cập ngay từ cơ sở pháp lý là Luật Thú y và Luật An toàn thực phẩm
Tại CV14 trước đó, VASEP cho rằng, nhiều sản phẩm chế biến từ động vật, sản phẩm động vật hoặc sản phẩm có chứa “sản phẩm động vật” (hàng khô, đồ hộp, nấu chín, ăn liền, đông lạnh…) vẫn đang tiếp tục thuộc danh mục phải kiểm dịch (theo Luật Thú y) là chưa phù hợp.
Theo quy định tại Luật Thú y, thì các loại sản phẩm hàng hóa nhập khẩu thuộc danh mục phải kiểm dịch động vật chỉ bao gồm động vật, sản phẩm động vật trên cạn và thủy sản có trong danh mục.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 3 Luật Thú y thì “sản phẩm động vật” chỉ bao gồm các bộ phận, các phần của cơ thể động vật, thủy sản . Luật Thú y không quy định sản phẩm chế biến từ “sản phẩm động vật” hoặc sản phẩm có chứa “sản phẩm động vật” thuộc diện phải kiểm dịch động vật.
Chương 3 của Luật An toàn Thực phẩm về “Điều kiện đảm bảo an toàn đối với thực phẩm” cũng chỉ quy định thực phẩm tươi sống có nguồn gốc từ động vật mới phải có chứng nhận vệ sinh thú y của cơ quan thú y (Điều 11). Đối với thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn chỉ phải đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị trường (Điều 12).
Tuy nhiên, các văn bản dưới Luật (TT 26/2016/TT-BNN và TT36/2018/TT-BNN đối với thuỷ sản của Bộ NN&PTNT) quy định về kiểm dịch đối với “sản phẩm động vật” đang được giải thích và áp dụng theo hướng sản phẩm chế biến từ “sản phẩm động vật” hoặc sản phẩm có chứa “sản phẩm động vật” (kể cả loại bao gói sẵn) đều thuộc diện phải kiểm dịch động vật. Hay nói cách khác, khái niệm “sản phẩm động vật” đã được mở rộng quá mức quy định tại Luật Thú y. Chính vì thế, chúng tôi thấy các “tiêu chí” và danh mục bao trùm rộng như này cũng đã được đưa vào cột chỉ định “kiểm dịch” trong Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 15/2018/TT-BNNPTNT.
Một điểm bất cập nữa là Khoản 3, Điều 3 của Luật Thú y đưa “sơ chế” và “chế biến” vào chung một khái niệm. Trong khi, đây vốn là hai khái niệm với các nội hàm rất khác nhau. Theo Điều 2 Luật An toàn thực phẩm thì: khái niệm “chế biến” được quy định tại khoản 4 khác hoàn toàn với khái niệm “sơ chế” được quy định tại khoản 16.
Việc mở rộng khái niệm “sản phẩm động vật” của các văn bản dưới Luật kể trên và không có sự phân biệt rõ với khái niệm “sơ chế, chế biến” như đã nêu là nguyên nhân quan trọng làm tăng diện hàng hóa phải kiểm dịch động vật, cản trở nỗ lực cắt giảm danh mục hàng hóa, tỷ lệ lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành.
Nghị quyết 02/NQ-CP (NQ02) (năm 2019 – 2021), trước đây là Nghị quyết 19 (năm 2014 – 2018) là các nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. NQ02 năm 2020 tiếp tục thực hiện các nội dung: (1) Cải thiện thứ hạng trong các bộ chỉ số quốc tế; (2) Đơn giản hóa điều kiện đầu tư kinh doanh; (3) Cắt giảm kiểm tra chuyên ngành; (4) Tập trung vào thanh toán điện tử, áp dụng thủ tục hành chính cấp độ 4; (5) Hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Nghị quyết số 35/NQ-CP (NQ35) về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. NQ35 nhằm mục tiêu tập trung phát triển doanh nghiệp tư nhân như: số lượng DN, đóng góp của kinh tế tư nhân trong GDP, vốn đầu tư toàn xã hội. 5 nhóm giải pháp được đề ra gồm: (1) Cải cách hành chính; (2) Tạo môi trường thuận lợi cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; (3) Bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của DN; (4) Giảm chi phí kinh doanh; (5) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của DN.