Đề xuất các quyết sách để phát triển kinh tế tư nhân

Tại cuộc họp góp ý Đề án Phát triển Kinh tế Tư nhân ngày 20/3/2025 do Lãnh đạo Cục Phát triển doanh nghiệp Tư nhân và Kinh tế tập thể (Bộ Tài chính) chủ trì, ông Nguyễn Hoài Nam – Tổng Thư ký VASEP, đại diện cho Hiệp hội VASEP, đã có một số trao đổi và đề xuất để thúc đẩy kinh tế tư nhân và nuôi dưỡng tinh thần nhiệt huyết, cống hiến xây dựng đất nước.
Đề xuất các quyết sách để phát triển kinh tế tư nhân
Ông Nguyễn Hoài Nam – Tổng Thư ký VASEP

Để kinh tế tư nhân trở thành động lực, trụ cột quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, nhà nước cần tạo môi trường và nuôi dưỡng cảm xúc để DN tư nhân tiên phong trong đầu tư, mạnh dạn trong mở rộng sản xuất, bắt kịp cơ hội tăng trưởng.

Về “mô hình” thì chúng ta có thể chọn lựa và tham khảo những cách thức hay từ các quốc gia phát triển trong khu vực và thế giới. Nhưng cần xem xét trước hết từ thực trạng hiện nay của Việt Nam để có các đề xuất chính sách phù hợp, đúng chỗ, đúng “bệnh”. Như nhiều chuyên gia đã nhận định và chia sẻ, các chính sách hiện nay cho kinh tế tư nhân còn ít và mờ nhạt, chưa công bằng với các DN nhà nước, DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong quy trình-thủ tục đầu tư, xây dựng, các tiếp cận về đất đai, về vốn, về tín dụng, về thủ tục hành chính và không ít các chính sách ưu đãi khác.

Ngay như trong cùng khối DN tư nhân cũng đã có sự “khác” giữa những DN lớn với các cộng đồng tư nhân còn lại (DN nhỏ, siêu nhỏ, hộ gia đình…), “khác” giữa các DN của lĩnh vực nông nghiệp-thủy sản với các các lĩnh vực công nghiệp, bất động sản, sản xuất, chế tạo, dịch vụ. Ngành nông nghiệp-thủy sản là quan trọng với Việt Nam, không chỉ cho vấn đề kinh tế, thương hiệu mà còn đặc biệt là vấn đề sinh kế, văn hóa - nhưng những DN lĩnh vực này đa số là nhỏ, siêu nhỏ, hộ gia đình và luôn là lĩnh vực có nhiều thách thức hơn cả.

Để thực sự tạo ra sự đột phá mang tính “cách mạng” như “khoán 10” trong phát triển kinh tế tư nhân, tôi đề xuất các tiếp cận chính sách như sau:

  1. Các chính sách cho khu vực kinh tế tư nhân cần phân định rõ giữa nhóm DN lớn và DN vừa-nhỏ; phân định rõ thành 2 lĩnh vực: DN nông nghiệp-thủy sản và DN các lĩnh vực còn lại. Việc này nhằm đảm bảo tính công bằng trong chính sách và huy động nguồn lực, để nuôi dưỡng phù hợp cả tinh thần khởi nghiệp, phát triển kinh tế và cả “cảm xúc” được công bằng và cống hiến.
  1. Các chính sách cần có nhằm huy động các DN tư nhân lớn tham gia vào các dự án lớn, dự án trước nay DN tư nhân không được tham gia, dự án quan trọng của đất nước. Với ngành thủy sản, thì đó là việc xây dựng và hình thành các DN tư nhân lớn trong khai thác biển, trong hợp tác khai thác biển với các quốc gia có biển, trong xây dựng các hệ thống cầu-cảng ở bờ biển và hải đảo, để thực hiện tốt một phần các quyết nghị của Nghị quyết 36-NQ/TW (22/10/2018) của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  1. Cần nâng cao vai trò và vị trí của các hiệp hội DN nhiều hơn nữa để các HH phát huy vai trò hỗ trợ của mình với sự phát triển của DN tư nhân, của kinh tế tư nhân và trở thành đối tác thực sự của các CQ nhà nước.
  1. Việc quan trọng là các quy định pháp luật và thủ tục hành chính phải thông thoáng, dễ hiểu, minh bạch; bãi bỏ các quy định chồng chéo, bất hợp lý, tạo công bằng giữa các DN tư nhân và nhà nước, FDI; tạo hành lang pháp lý cho DN hoạt động thay vì nghiêng về kiểm soát. Cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ để DN tư nhân không tiếp tục bị “bào mòn” nhiệt huyết. Cùng với đó là cải cách triệt để đạo đức công vụ nhằm phục vụ DN tốt hơn, hiệu quả hơn. Những nội dung quy định tạo “nghẽn” cần rà soát, bãi bỏ hoặc sửa đổi như liệt kê ở mục (6) dưới đây liên quan đến: quy trình-thủ tục đầu tư, xây dựng, tiếp cận đất đai, PCCC, Môi trường, thuế, phí, BHXH, tín dụng, lãi suất…
  1. Đề xuất mỗi Tỉnh thành lập một Trung tâm – có thể gọi là “Trung tâm khởi nghiệp” hoặc “Trung tâm sáng tạo, phát triển” – thực hiện ít nhất 03 chức năng: hỗ trợ pháp lý, chuyển giao công nghệ và thẩm định dự án. Đây sẽ là nơi để điều phối, tổ chức và hỗ trợ theo các quyết sách của Nhà nước cho kinh tế tư nhân, DN tư nhân ở mỗi Tỉnh.
  1. Các quyết sách cần thiết phải tính đến và giải quyết các thực trạng “không công bằng” “lực cản” và “mất cảm xúc” để các DN tư nhân, đặc biệt là các DN nhỏ, các DN ngành nông nghiệp-thủy sản sẽ không chỉ “mạnh khỏe” mà còn có động lực, niềm tin và cảm xúc cho phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Ít nhất cần giải quyết được 10 phạm trù quan trọng sau:

 

  1. “Cách mạng” trong quy định, quy trình, thủ tục đầu tư, xây dựng:

Đề xuất doanh nghiệp được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, và cứ việc triển khai làm những cái pháp luật không cấm mà chỉ thông báo/đăng ký tại một cơ quan duy nhất theo quy định. Liên quan đến vấn đề này, chính sách đột phá cần có là Nhà nước ban hành: i) Danh mục những thứ mà DN không được phép làm, ii) Nhà nước sẽ thanh-kiểm tra nếu DN làm sai thì xử lý vi phạm thích đáng.

Hiện tại, liên quan đến một số dự án (mới, hoặc mở rộng sản xuất), DN phải xin phép từ ấp, xã, huyện, sở, tỉnh và thậm chí cả Trung ương, mất 3 năm, 5 năm thậm chí 10 năm chưa được phê duyệt thì không chỉ mất đi cơ hội đầu tư, cơ hội kinh doanh mà còn bào mòn nhuệ khí của DN. Chưa kể, quá trình “xin phép” các cấp đó, DN còn phải đặt tiền cọc bảo lãnh dự án, phải chứng minh nguồn vốn đầu tư (nộp tiền vào ngân hàng và vay vốn từ ngân hang). Sau khi đầy đủ mọi thứ với thời gian dài 3-5 năm thì dự án/đề án mới được cấp giấy phép đầu tư. Vì thế lãi vay ngân hàng thường rất lớn, đồng tiền mất giá khiến dự án đội vốn lớn.

  1. Tiếp cận đất đai: DN tư nhân được ưu tiên trong tiếp cận các khu vực xây dựng theo quy hoạch để xây dựng các cơ sở sản xuất, nhà xưởng, với các ưu đãi trong giá thuê đất; dành các quỹ đất để các DN tư nhân, đặc biệt là DN nông-thủy sản xây dựng nhà ở cho công nhân, gia tăng phúc lợi xã hội.

Các DN tư nhân ngành nông nghiệp, đầu tư cho nông nghiệp-thủy sản để sản xuất nguyên liệu (nuôi trồng thủy sản, trồng cây nông nghiệp…) được ưu tiên và ưu đãi với các diện tích sản xuất nguyên liệu phù hợp thay vì ưu tiên cho các lĩnh vực khác, được gia hạn tiếp khi hết hạn thuê đất hoặc tái lập hợp đồng giống như Hộ cá thể (thực tiễn có sự phân biệt giữa DN tư nhân và Hộ cá thể).

(Hiện giá thuê đất tại các khu công nghiệp khá cao, trong khi DN tư nhân không được hưởng các ưu đãi tiếp cận như DN nhà nước hay DN FDI. Nhiều diện tích phù hợp cho SX nông nghiệp hay nuôi trồng thủy sản tại các tỉnh không được ưu tiên quy hoạch cho các DN tư nhân nông nghiệp).

  1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất: Chính sách cho DN tư nhân chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đặc biệt là DN nông-thủy sản, được ưu tiên và thủ tục thuận lợi. Đặc biệt là quy định và thủ tục chuyển đổi đất nông nghiệp (như từ trồng lúa sang nuôi tôm) nhằm gia tăng hiệu quả đầu tư.
  2. Vốn, tín dụng và lãi suất: Chính sách không chỉ cần có ưu đãi về hạn mức tín dụng và lãi suất thấp cho DN tư nhân, đặc biệt là DN nhỏ, DN ngành nông nghiệp mà cần đảm bảo sự công bằng trong cơ hội tiếp cận vốn. Phải quy định huy động sự tham gia tích cực của các Quỹ hiện có do Nhà nước quản lý để cùng các Ngân hàng thương mại thực hiện các chính sách này.

Sửa đổi điều kiện cho vay đối với nhóm DN tư nhân, đặc biệt DN nhỏ, siêu nhỏ và các DN-hộ gia đình ngành nông nghiệp để nới rộng các khả năng tiếp cận vốn vay đối với nhóm này – thay vì chỉ những tài sản nào được cấp quyền sở hữu và ghi vào giấy (chứng nhận QSD đất…) mới cho đăng ký tài sản thế chấp (Điều 25, 44 nghị định 99/2022/NĐ-CP) để làm điều kiện vay vốn thì có thể xem xét đến cả tài sản đã đầu tư, tài sản hình thành trong tương lai và tín chấp.

  1. Thuế: Ưu đãi thuế cho các DN tư nhân, đặc biệt là các DN nhỏ, các DN ngành nông nghiệp-thủy sản để họ dùng nguồn thặng dư phát triển DN, đóng góp cho XH.

Cần triệt để cải cách công tác hoàn thuế GTGT cho DN tư nhân, tránh việc hoàn thuế quá chậm & kéo dài như hiện nay làm DN quy mô nhỏ cạn kiệt nguồn vốn kinh doanh. Việc xử lý vi phạm (như với các DN nợ thuế hoặc chậm nộp thuế) cũng cần được áp dụng công bằng hoặc tương tự khi cơ quan thuế chậm hoàn thuế GTGT cho DN.

Chính sách thuế TNDN cũng xem xét không thể cào bằng một con số áp dụng chung giống nhau giữa DN “đại bàng” và các DN nhỏ, rất nhỏ và/hoặc thuộc nhóm nông nghiệp-thủy sản. Cần có các mức ưu đãi khác nhau để tạo động lực cho các DN nhỏ, DN lĩnh vực nông nghiệp. Đặc biệt cần quy định rõ trong VB QPPL thuế TNDN những mặt hàng/sản phẩm đã rõ ràng “chế biến” là “SP có quá trình chế biến” – như các mặt hàng thủy sản – để các DN tư nhân, DN ngành thủy sản được áp dụng đúng & đồng bộ các ưu đãi hiện có về thuế TNDN, tránh tình trạng không nhất quán và thiếu đồng bộ của việc áp thuế TNDN hiện nay, khiến DN luôn thấy bất an và mất “cảm xúc”.

  1. Bảo hiểm xã hội: Mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp hiện nay của Việt Nam đang ở Top cao của thế giới. Chính sách này áp dụng đồng bộ với tất cả các DN, bất kể lớn hay nhỏ hay lĩnh vực hoạt động nào, gây áp lực không nhỏ cho DN tư nhân, đặc biệt là DN nông nghiệp. Chính sách mới đưa ra cần xem xét “phân vùng” để có ưu đãi hoặc phân tầng cho DN tư nhân, đặc biệt với các DN nhỏ, DN ngành NN-thủy sản.
  2. Các loại phí và kinh phí: bên cạnh các chính sách thuế, thì các DN tư nhân cũng đang phải tuân thủ thực hiện các loại phí-lệ phí theo điều chỉnh của các Luật khác nhau. Trong đó có những loại phí mà cộng đồng DN tư nhân luôn thấy “áp lực” với mức đóng góp không nhỏ. Kinh phí công đoàn (2% quỹ lương) hay phí phải đóng vào Quỹ phòng chống thiên tai (0,02% trên tổng giá trị tài sản hiện có theo báo cáo tài chính lập ngày 31 tháng 12 hàng năm của tổ chức báo cáo cơ quan Thuế nhưng tối thiểu 500 nghìn đồng, tối đa 100 triệu đồng).
  3. Thanh tra, kiểm tra của Nhà nước: Hàng năm DN phải chịu nhiều đợt thanh tra, kiểm tra từ nhiều cơ quan (phòng cháy chữa cháy, bảo hiểm xã hội, môi trường, an toàn thực phẩm, công nghệ…). Các DN tư nhân mong rằng quyết sách của Nhà nước để thúc đẩy, tạo động lực cho kinh tế tư nhân cũng cần xem xét đến nội dung đặc biệt quan trọng này, để có thể gộp hoặc giảm tối đa các loại thanh-kiểm tra này đối với các DN tư nhân.

Đề xuất xếp hạng doanh nghiệp theo loại A, B, C, D, E. Khi đó:

  1. Nếu doanh nghiệp XUẤT SẮC xếp hạng A thì 10 năm mới thanh tra, kiểm tra 1 lần.
  2. Nếu doanh nghiệp TỐT xếp hạng B thì 7 năm mới thanh tra, kiểm tra 1 lần.
  3. Nếu doanh nghiệp KHÁ xếp hạng C thì 4 năm mới thanh tra, kiểm tra 1 lần.
  4. Nếu doanh nghiệp TRUNG BÌNH xếp hạng D thì 1 năm mới thanh tra, kiểm tra 1 lần.
  5. Nếu doanh nghiệp YẾU xếp hạng E thì 0,5 năm thanh tra, kiểm tra 1 lần.
  1. Chi phí tiền điện: Tiền điện nói riêng và năng lượng nói chung sử dụng trong các cơ sở sản xuất, nhà máy chế biến hay nông trường…luôn chiếm tỷ lệ chi phí lớn. Đơn giá điện kinh doanh áp dụng chung cho các loại hình DN. Trong khi việc lắp đặt điện mặt trời áp mái thì còn những ràng buộc/hạn chế. Chính sách có ưu đãi hoặc hỗ trợ liên quan đến chi phí điện năng cũng là một nội dung tạo ra “cảm xúc” lớn cho cộng đồng DN tư nhân, nhất là DN nhỏ, DN nông-thủy sản.
  2. Các ngành hàng chủ lực được phép thành lập ‘Quỹ phát triển công nghệ”, nâng tầm và đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ quốc gia: Quỹ phát triển công nghệ là mô hình đã thành công ở một số nước (vd: Na-uy có quỹ phát triển thị trường thủy sản), phù hợp với các nhóm ngành hàng xuất khẩu, đặc biệt là ngành nông nghiệp. Ý tưởng là quỹ này được trích theo tỷ lệ % trên số lượng XK. Quỹ sẽ là cánh tay hỗ trợ them nguồn lực cho công nghệ, đổi mới sáng tạo, kết nối các sức mạnh đầu tư-thị trường của ngành hàng.

Bên cạnh đó, cần nâng tầm và đẩy mạnh cả về quy mô và mức hỗ trợ các chương trình quốc gia hiện có dành cho kết nối thị trường, XTTM, thương hiệu, khởi nghiệp, vinh danh thành tích XK để hỗ trợ DN tư nhân, đặc biệt các DN nhỏ, DN nông-thủy sản hội nhập, phát triển.

----------------------- oOo ---------------------

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin cùng chuyên mục