(vasep.com.vn) Ngành tôm Thái Lan đang kêu gọi chính phủ đưa kế hoạch phục hồi ngành trở thành một “Chương trình Nghị sự Quốc gia”, với kỳ vọng tăng mạnh sản lượng và nắm bắt cơ hội lớn tại thị trường Mỹ vào năm 2026.

Hiệp hội Tôm Thái Lan đề xuất hàng loạt thay đổi chính sách nhằm nâng sản lượng tôm hằng năm từ mức 250.000–270.000 tấn lên 400.000 tấn. Mục tiêu này chủ yếu dựa trên diễn biến mới tại thị trường Mỹ, nơi mức thuế nhập khẩu cao đang khiến Ấn Độ – quốc gia sản xuất tôm cạnh tranh nhất – gặp bất lợi, có thể tạo ra khoảng trống thị trường tới 300.000 tấn, theo báo The Nation.
Từng đạt hơn 600.000 tấn vào năm 2011, sản lượng tôm Thái Lan đã giảm sâu những năm gần đây, chủ yếu do dịch bệnh kéo dài và cạnh tranh giá quốc tế khốc liệt.
Theo Chủ tịch Hiệp hội Tôm Thái Lan, ông Ekapoj Yodpinit, sản lượng giảm đã khiến Thái Lan thất thu 650 tỷ baht (20,3 tỷ USD / 17,5 tỷ EUR) trong 13 năm qua.
Hiện tại, hiệp hội muốn biến năm 2026 thành “năm phục hồi”, đặc biệt khi Ấn Độ đang chịu mức thuế nhập khẩu tại Mỹ hơn 60%, trong khi tôm Thái Lan chỉ chịu thuế 19% – một lợi thế cạnh tranh lớn.
“Đây là cơ hội chưa từng có để tôm Thái Lan giành thị phần lớn tại Mỹ,” ông Yodpinit khẳng định.
Để tận dụng cơ hội, hiệp hội kêu gọi chính phủ ban hành “Chương trình Nghị sự Quốc gia” với mục tiêu khôi phục sản lượng lên ít nhất 400.000 tấn mỗi năm.
Những yêu cầu chính bao gồm: đẩy nhanh đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) với EU, Anh và Hàn Quốc; giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn như đậu nành; cung cấp các khoản vay lãi suất thấp để nông dân nâng cấp trang thiết bị đã lỗi thời; và tăng ngân sách nghiên cứu để kiểm soát dịch bệnh một cách hệ thống.
“Chúng ta đã mắc kẹt ở mức 270.000 tấn quá lâu. Năm 2026 thị trường sẽ mở ra, và chúng ta phải có đủ sản lượng để nắm bắt cơ hội,” ông nói.
Tuy nhiên, ông Will Wiangchai, quản lý xuất khẩu tại Siam Canadian (Thái Lan), nhận định rằng mục tiêu 400.000 tấn là “rất lạc quan”, đặc biệt khi Thái Lan chưa đạt mức 300.000 tấn trong hơn một thập kỷ.
Ngoài dịch bệnh kéo dài, ông cho biết nhiều hạn chế mang tính cấu trúc đang kìm hãm tăng trưởng của ngành, gồm chi phí sản xuất cao, hệ thống nuôi lạc hậu và tác động môi trường – khí hậu.
“Với những rào cản tổng hợp này, đạt 400.000 tấn chỉ khả thi khi có những cải tổ lớn – vượt xa phạm vi kiểm soát dịch bệnh,” ông nói.
Mặc dù chính phủ Thái Lan có các biện pháp thể hiện sự ủng hộ ngành tôm, thực tế cho thấy hơn một thập kỷ qua các chính sách này chưa mang lại cải thiện đáng kể.
Nhiều nhà sản xuất lo ngại về việc thiếu các khoản vay ưu đãi để nâng cấp trang trại, thiếu ưu đãi về thuế đối với thức ăn nhằm giảm chi phí sản xuất, thiếu đầu tư công cho nghiên cứu dịch bệnh, cũng như thiếu trợ cấp giúp nông dân hiện đại hóa hoạt động sản xuất. Đồng thời, tiến độ đàm phán thương mại chậm chạp – bao gồm cả việc mất ưu đãi GSP với EU – cho thấy sự hỗ trợ xuất khẩu còn hạn chế, theo Wiangchai.
Ông cũng lưu ý rằng dù Ấn Độ gặp bất lợi, Thái Lan vẫn chưa giành lại được thị phần tại Mỹ do Indonesia và Việt Nam vẫn là những nhà cung ứng cạnh tranh hơn, trong khi chi phí sản xuất và xuất khẩu của Thái Lan vẫn cao. Nếu Mỹ và Ấn Độ đạt thỏa thuận hạ thuế vào năm 2026, lợi thế của Thái Lan tại thị trường Mỹ sẽ tiếp tục thu hẹp.
Tuy vậy, ông Wiangchai cho rằng vẫn có một hiệu ứng thứ cấp có lợi cho Thái Lan: hiện Ấn Độ đang chuyển lượng lớn tôm sang Canada và các thị trường châu Á vì Mỹ kém hấp dẫn do thuế cao. Nếu Mỹ giảm thuế, Ấn Độ có thể chuyển hàng trở lại thị trường này, qua đó giảm áp lực cạnh tranh với tôm Thái Lan tại các thị trường thứ cấp.
Dự báo trong năm 2025, sản lượng tôm Thái Lan sẽ duy trì khoảng 270.000 tấn – không đổi so với năm trước. Từ tháng 1 đến tháng 10, xuất khẩu đạt 112.000 tấn, tăng 6% so với cùng kỳ. Cả năm, xuất khẩu được dự đoán đạt 126.000 tấn với giá trị khoảng 30 tỷ baht (939 triệu USD / 806,5 triệu EUR), giảm 4–5%, theo Bangkok Post.