Trong nuôi trồng thủy sản, vấn đề phòng bệnh được đặt lên hàng đầu và nguyên tắc là “phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần thiết”. Để tăng sức đề kháng và giảm nguy cơ phát sinh bệnh cho thủy sản nuôi, nhất là trong mùa hè nắng nóng hay xuất hiện những cơn mưa bất chợt, người nuôi thủy sản cần thực hiện tốt các biện pháp cụ thể trong kỹ thuật nuôi.
Ao nuôi: chọn địa điểm nuôi thích hợp, có nguồn nước không bị ô nhiễm bởi các nguồn nước thải sinh hoạt vàcác nhàmáy công nghiệp, các yếu tố môi trường thuận lợi. Ao nuôi phải được cải tạo triệt để trước mỗi vụ nuôi, lớp bùn đáy không nên để quá dày. Giữ chất lượng nước ao tốt vàgiảm làm cá bị sốc do môi trường như: hàm lượng oxy thấp, nhiệt độ nước quá cao hoặc quá thấp, sự tích tụ các chất thải, độ mặn, pH thay đổi...
Giống: người nuôi cần phải mua con giống tốt, khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng vàđược kiểm dịch bởi các cơ quan chức năng. Thả giống với mật độ hợp lý, tuân thủlịch thời vụ do Sở nông nghiệp vàphát triển nông thôn ban hành hàng năm. Cần loại bỏ những con giống yếu, giống bị bệnh ra khỏi ao nuôi.
Quản lý thức ăn: nên sử dụng các loại thức ăn đảm bảo chất lượng vàphù hợp với từng đối tượng nuôi; không nên sử dụng các loại thức ăn đã ươn thối, ẩm mốc hoặc đã hết hạn sử dụng. Cho ăn đúng liều lượng vàđảm bảo đủchất dinh dưỡng. Xác định chính xác khẩu phần thức ăn vàcho ăn nhiều bữa trong ngày làbiện pháp cần thiết để giảm chất thải hữu cơ trong ao nuôi thông qua giảm lượng thức ăn dư thừa vàthức ăn bị phân giải ngoài môi trường nước ao. Thường xuyên kiểm tra, vớt bỏ thức ăn thừa trong ao nuôi vàkhử trùng dụng cụ, địa điểm cho ăn. Thường xuyên bổ sung thêm các loại vitamin, khoáng chất, men tiêu hóa để nâng cao sức đề kháng cho tôm, cá.
Quản lý các yếu tố môi trường nuôi:
- Độ sâu: luôn luôn đảm bảo mực nước ao nuôi trên 1 m, đặc biệt trong mùa nắng nóng mực nước càng sâu, môi trường sống càng ổn định. Mực nước lýtưởng nhất là 1,5 m.
- Màu nước: luôn duy trì màu nước cómàu xanh lácây pha nâu, nâu vàng hoặc xanh láchuối non.
- Độ trong: độ trong của nước nuôi thủy sản chủyếu phụ thuộc vào mật độ của sinh vật phù du có trong ao. Khi độ trong quá thấp, thường do tảo phù du phát triển quá dày, làm các chỉ số pH, DO biến động rất lớn gây sốc cho thủy sản nuôi trong ao. Ngược lại, khi độ trong cao, hàm lượng oxy thường thấp vàtảo đáy có nguy cơ bùng phát mạnh, cạnh tranh không gian hoạt động vàoxy về ban đêm, gây sốc cho tôm, cá. Độ trong nước ao nuôi nên duy trì từ40 - 60 cm trong vòng 2 tháng đầu. Đến tháng thứ3 trởđi, duy trìđộtrong từ35 - 45 cm.
- Độmặn: trong ao nuôi, sau các cơn mưa lớn kéo dài, độ mặn có sự phân tầng, do vậy cần thiết phải thay nước tầng mặt vàlấy nước tầng đáy để ổn định độ mặn, tránh gây sốc cho thủy sản nuôi. Sử dụng nguồn nước ngọt tại chỗ để giảm độ mặn trong các ao nuôi thủy sản vào mùa khô, mùa có độ mặn cao.
- pH: duy trì pH nước trong khoảng 7,5 - 8,5. Nếu pH thấp hơn hoặc cao hơn, thay nước và bón vôi sống (CaCO3), vôi dolomite (CaMg(CO3)2) với tỷ lệ150 - 300 kg/ha. Ngay sau khi trời mưa to, cần bón vôi xuống ao, rắc vôi dọc theo bờ ao.
- Độkiềm: sau khi điều chỉnh pH, cần duy trì độ kiềm 80 - 120 mg/l. Để duy trì độ kiềm, dùng các biện pháp sau:
+ Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh trong các ao nuôi thâm canh, chu kỳ nuôi dài để giảm hàm lượng nitơ dư thừa trong nước ao.
+ Ổn định pH nước ao trong giới hạn 7,5 - 8,5 (nước mặn) để kìm hãm sự chuyển đổi giữa các dạng khác nhau của nitơ.
+ Khi cần thiết vàđiều kiện cho phép, cần thay nhanh nước ao bằng nguồn nước mới để giảm khẩn cấp hàm lượng NH3 trong ao nuôi.
(Theo KHPT)