Giá trị thị trường cá nước ngọt đông lạnh châu Âu giảm nhẹ

(vasep.com.vn) IndexBox mới đây đã công bố báo cáo “Phân tích thị trường, quy mô và xu hướng tiêu thụ cá nước ngọt nguyên con đông lạnh của EU”. Dưới đây là một số thông tin chính của báo cáo.

Sau 3 năm tăng trưởng liên tục, thị trường cá nước ngọt đông lạnh của EU giảm giá trị 2,4% xuống mức 732 triệu USD trong năm 2019. Nhìn chung, xu hướng thị trường tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng lớn nhất trong năm 2017 với mức tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2016. Trong khoảng thời gian nghiên cứu (2013-2019), thị trường đạt mức giá trị cao kỉ lục trong năm 2018 với 750 triệu USD trước khi giảm nhẹ trong năm 2019.

Tiêu thụ theo quốc gia

Theo ước tính của IndexBox, các quốc gia có sản lượng tiêu thụ cá nước ngọt đông lạnh cao nhất trong năm 2019 bao gồm Đức (49 nghìn tấn), Anh (40 nghìn tấn) và Tây Ban Nha (23 nghìn tấn), chiếm 48% tổng lượng tiêu thụ. Pháp, Hà Lan, Italia, Bỉ, Ba Lan, Romania, Bồ Đào Nha, Cộng hòa Séc và Hy Lạp chiếm 35% tổng lượng tiêu thụ.Từ năm 2013 đến năm 2019, Ba Lan là quốc gia có tốc độ tăng tiêu thụ cá nước ngọt đông lạnh cao nhất.

Về mặt giá trị, Anh (146 triệu USD), Đức (122 triệu USD) và Tây Ban Nha (84 triệu USD) là những quốc gia có mức giá trị thị trường cao nhất trong năm 2019, chiếm 48% thị phần. Các quốc gia khác như Pháp, Italia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Cộng hòa Séc, Bỉ, Romania, Ba Lan và Hy Lạp chiếm 36% thị phần.

Các quốc gia có mức tiêu thụ cá nước ngọt đông lạnh bình quân đầu người cao nhất trong năm 2019 là Bỉ (0,755 kg/người), Hà Lan (0,672 kg/người) và Bồ Đào Nha (0,615 kg/người).

Sản lượng cá nước ngọt đông lạnh ở EU

Năm 2019, sản lượng cá nước ngọt đông lạnh ở EU đạt 164 nghìn tấn, giảm 11,4% so với năm 2018. Trong giai đoạn 2013-2019, tổng sản lượng tăng bình quân hàng năm ở mức 1,3%; Tốc độ tăng trưởng lớn nhất được ghi nhận trong năm 2018 với mức tăng 10% so với cùng kỳ năm 2017. Trong năm 2018, sản lượng cá nước ngọt đông lạnh của EU đạt 185 nghìn tấn.

Quốc gia có sản lượng cá nước ngọt đông lạnh lớn nhất là Đức (52 nghìn tấn), chiếm khoảng 32% tổng khối lượng. Sản lượng cá nước ngọt đông lạnh ở Đức đã vượt gấp đôi so với sản lượng của quốc gia sản xuất lớn thứ hai, Tây Ban Nha (23 nghìn tấn). Xếp thứ ba là Vương quốc Anh (21 nghìn tấn), chiếm 13% tổng khối lượng.

Trong giai đoạn 2013-2019, sản xuất cá nước ngọt đông lạnh của Đức có tốc độ tăng trung bình hàng năm đạt 1,2%. Vương quốc Anh ghi nhận tốc độ tăng trưởng tăng 1,3%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng của Tây Ban Nha giảm 2,6%/năm.

Xuất khẩu cá nước ngọt đông lạnh của EU

Năm 2019, khối lượng cá nước ngọt nguyên con đông lạnh XK của EU giảm xuống còn 101 nghìn tấn, giảm 13,1% so với năm 2018. Nhìn chung, xu hướng xuất khẩu tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng nổi bật nhất được ghi nhận trong năm 2018 khi XK tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2017. Trong giai đoạn 2013-2019, XK đạt mức cao kỷ lục 117 nghìn tấn vào năm 2016, tuy nhiên, từ năm 2017 đến 2019, khối lượng XK ở mức thấp hơn một chút. Về giá trị, XK cá nước ngọt đông lạnh giảm xuống còn 291 triệu USD trong năm 2019.

Trong năm 2019, Hà Lan (25 nghìn tấn) và Tây Ban Nha (24 nghìn tấn) chiếm khoảng 49% tổng lượng XK cá nước ngọt nguyên con đông lạnh. Bồ Đào Nha (15 nghìn tấn) chiếm 15% khối lượng XK, tiếp theo là Đức (8,6%), Bỉ (6,5%) và Estonia (5,1%). Latvia và Ba Lan có khối lượng XK lần lượt đạt 3 nghìn tấn và 2,4 nghìn tấn.

Từ năm 2013 đến 2019, XK của Latvia có mức tăng lớn nhất, trong khi các quốc gia XK lớn khác có tốc độ tăng trưởng thấp hơn.

Về mặt giá trị, Hà Lan (89 triệu USD), Tây Ban Nha (65 triệu USD) và Bồ Đào Nha (48 triệu USD), chiếm 69% tổng giá trị XK trong khi Đức, Bỉ, Estonia, Ba Lan và Latvia chiếm 17%.

Latvia cũng là quốc gia ghi nhận tốc độ tăng trưởng giá trị XK cao nhất, trong khi các quốc gia khác có tốc độ tăng trưởng thấp hơn.

Giá xuất khẩu theo quốc gia

Trong năm 2019, giá XK cá nước ngọt đông lạnh của EU ở mức 2.893 USD/tấn, không nhiều thay đổi so với năm 2018. Trong giai đoạn 2013-2019, giá XK ghi nhận tốc độ tăng trung bình hàng năm ở mức 1,6%. Tốc độ tăng trưởng lớn nhất vào năm 2018 khi giá XK tăng 17% so với cùng kỳ năm 2017. Do đó, giá XK đạt mức cao nhất là 2.916 USD/tấn, giá XK chững lại trong năm 2019.

Có sự khác biệt đáng kể về giá trung bình giữa các nước XK chính. Năm 2019, quốc gia có giá XK cao nhất là Hà Lan (3.578 USD/tấn), trong khi Latvia (916 USD/tấn) là một trong những quốc gia có giá XK thấp nhất.Trong giai đoạn 2013-2019, Hà Lan có tốc độ tăng về giá lớn nhất.

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin cùng chuyên mục