Tình trạng lạm phát ở nhiều thị trường tiêu thụ lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU... khiến sức tiêu thụ giảm mạnh. Việc này đang đặt nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của VN vào tình thế báo động.
Hoãn, hủy đơn hàng hàng loạt
Từ cuối tháng 5, doanh nghiệp (DN) ở các ngành hàng đã ghi nhận dấu hiệu giảm tốc ở nhiều thị trường quan trọng vì lạm phát. Dấu hiệu càng rõ dần trong 2 tháng tiếp theo. Lãnh đạo một DN xuất khẩu thủy sản hàng đầu miền Tây ta thán: đến thị trường có độ ổn định rất cao như Nhật Bản cũng phải điều chỉnh giá, mức tăng khoảng 20% để bù đắp lạm phát. Người tiêu dùng nước này vốn rất nhạy cảm với sự biến động của giá cả nên việc này khiến sức mua giảm mạnh. Các đối tác nhập khẩu không hủy đơn nhưng điều chỉnh lịch nhận hàng từ 3 - 5 tháng để chờ người tiêu dùng làm quen với mức giá mới. Trong khi đó, các thị trường như Mỹ và EU lượng hàng tồn kho vẫn còn cao do người dân thắt chặt chi tiêu khiến nhu cầu nhập khẩu giảm mạnh. Một yếu tố quan trọng khác là dịch Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát ở nhiều nơi trên thế giới nên các nhà nhập khẩu cũng không vội ký hợp đồng dồn dập như giai đoạn cuối năm 2021 đầu năm 2022. Chính vì vậy, xuất khẩu thủy sản có thể sẽ còn khó khăn kéo dài trong nửa cuối năm 2022.
Dù vậy, theo ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản VN (VASEP): Lạm phát ở nhiều thị trường sẽ ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu thủy sản của VN trong những tháng cuối năm, tuy nhiên nhờ nửa đầu năm nay xuất khẩu tăng trưởng mạnh nên dự báo cả năm vẫn có thể đạt kim ngạch 10 tỉ USD, với mức tăng trưởng 10 - 12%.
Đối với ngành chế biến gỗ, tình hình còn khó khăn hơn rất nhiều. Một số DN cho biết từ quý 2 đơn hàng bắt đầu thưa dần và hiện tổng lượng hàng xuất giảm 30 - 40% so với năm trước. So với các mặt hàng tiêu dùng thì sản phẩm gỗ càng khó tiêu thụ hơn vì không phải hàng thiết yếu. Chính vì vậy các nhà nhập khẩu không chỉ hoãn mà hủy luôn đơn hàng. Nhiều DN nhỏ bị vướng vài hợp đồng 1 - 2 triệu USD, còn DN trung bình 4 - 5 triệu USD là bình thường. Bị hủy hợp đồng dẫn đến tồn kho tăng, tiêu thụ nội địa chậm khiến nhiều DN chỉ còn hoạt động cầm chừng. Ông Lê Văn Lương, Chủ tịch HĐQT Công ty công nghệ gỗ Đại Thành (Bình Định) thừa nhận: Hiện mùa cao điểm xuất khẩu hằng năm đã qua. Tình hình xuất khẩu quý 3 - 4 vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc vì tình hình thế giới còn nhiều biến động. Không chỉ đơn hàng ít mà thậm chí có đơn hàng nhiều DN cũng không dám nhận vì sợ đối tác hủy hợp đồng như thời gian gần đây.
Xuất khẩu và nội địa đều khó
Một trong những mặt hàng xuất khẩu khó khăn nhất trong nửa đầu năm 2022 là lúa gạo. Theo Hiệp hội Lương thực VN (VFA), giá gạo xuất khẩu bình quân của VN trong 6 tháng đầu năm nay khoảng trên 489 USD/tấn, giảm gần 55 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước. Lượng gạo xuất khẩu trong nửa năm qua đạt 3,5 triệu tấn, giá trị 1,7 tỉ USD. Những ngày đầu tháng 8, trong khi giá gạo Thái Lan đã tăng trở lại, gạo 5% tấm đạt mức khoảng 420 USD/tấn thì gạo cùng phẩm cấp của VN tiếp tục sụt giảm về mức 393 USD/tấn. Ông Nguyễn Văn Đôn, Giám đốc Công ty TNHH Việt Hưng (Tiền Giang) cho rằng giá lúa gạo tiếp tục có xu hướng giảm, mất 10 - 15 USD/tấn tùy loại so với đầu tháng trước.
Nguyên nhân là thị trường trầm lắng và đang vào vụ thu hoạch lúa hè thu làm cho giá lúa ở thị trường nội địa giảm nhẹ 100 - 200 đồng so với tháng trước. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nông dân sản xuất lúa, đối tượng chiếm số lượng rất đông.
Mỹ Hạnh (Theo Báo Thanh niên)