Xu hướng và thách thức trong ngành thức ăn thủy sản của Indonesia

(vasep.com.vn) Các nhà sản xuất thức ăn thủy sản của Indonesia - có thể là các nhà sản xuất công nghiệp hoặc nông dân sản xuất thức ăn chăn nuôi độc lập - đang ngày càng hướng tới việc sử dụng các chất thay thế địa phương và bền vững cho bột cá và đậu nành.

Xu hướng và thách thức trong ngành thức ăn thủy sản của Indonesia

Đại dịch Covid-19 có tác động tiêu cực đến ngành nuôi trồng thủy sản của Indonesia - do chính sách của chính phủ hạn chế việc di chuyển của người dân và giảm sức mua của người dân.

Do nhu cầu tiêu thụ cá giảm sút nên nhiều nông dân đã giảm hoặc hoãn thả cá, tôm, làm giảm nhu cầu về thức ăn thủy sản trong nước. Dựa trên dữ liệu của Hiệp hội các nhà máy thức ăn chăn nuôi Indonesia (Gabungan Perusahaan Makanan Ternak / GPMT), tăng trưởng trung bình sản xuất thức ăn thủy sản trong nước trong giai đoạn 2017-2019 là 7,4% - tăng từ 1,55 triệu tấn lên 1,79 triệu tấn. Tuy nhiên, sau đó giảm 8,2% vào năm 2020 xuống 1,64 triệu tấn và dự đoán sẽ giảm thêm 1,6% trong năm nay, xuống 1,62 triệu tấn.

Tuy nhiên, với xu hướng giảm đáng kể các ca mắc Covid-19 và tỷ lệ tiêm phòng ngày càng tăng trong cộng đồng, sản lượng nuôi trồng thủy sản được dự đoán sẽ phục hồi nhanh chóng trong những tháng tới và hy vọng sẽ tốt hơn nhiều trong năm tới. Mặc dù nuôi trồng thủy sản đã bị ảnh hưởng bởi đại dịch, nhưng nhu cầu về protein có xu hướng tăng.

Chủ tịch GPMT, Deny Mulyono, xác nhận rằng đại dịch là thách thức chính mà ngành thức ăn thủy sản phải đối mặt trong 2 năm qua. Những thách thức khác bao gồm lũ lụt tấn công vùng nuôi cá măng trọng điểm ở bờ biển phía bắc Java (Pantura) và Kalimantan vào đầu năm, cũng làm giảm nhu cầu về thức ăn chăn nuôi. Tuy nhiên, ông hy vọng ngành công nghiệp này sẽ bắt đầu phục hồi vào cuối năm nay để có thể tập trung vào các vấn đề lớn hơn và dài hạn hơn.

Bất chấp sự sụt giảm trong hai năm qua, ngành thức ăn thủy sản ở Indonesia vẫn rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và chính phủ đã đặt mục tiêu tăng sản lượng nuôi trồng - đặc biệt là đối với ngành tôm, mục tiêu tăng 250% - về sản lượng vào năm 2024. Mulyono nói rằng đã có 25 công ty thức ăn thủy sản là thành viên của GPMT, và dự kiến sẽ sớm có thêm hai hoặc ba khoản đầu tư mới. Một số công ty hiện tại cũng đã tung ra các sản phẩm mới và mở các nhà máy mới để tăng sản lượng của họ.

Tập trung vào các thành phần thức ăn thay thế bền vững và có thể truy xuất nguồn gốc
Mulyono nhấn mạnh rằng thách thức lớn nhất mà ngành công nghiệp thức ăn thủy sản phải đối mặt ngày nay là tìm kiếm các nguyên liệu thô thay thế, cụ thể là để thay thế bột cá làm nguồn cung cấp protein chính. Điều này đưa ra những cân nhắc sâu hơn như các loại lựa chọn thay thế, khả năng truy xuất nguồn gốc, duy trì giá cả cạnh tranh, tính bền vững và duy trì nguồn cung cấp liên tục. Ngành công nghiệp phải sản xuất thức ăn chăn nuôi tốt hơn về khẩu phần ăn, nhưng vẫn có giá cả phù hợp cho người chăn nuôi.

Giá thức ăn là mối quan tâm lớn đối với người nuôi cá, đặc biệt là những người sản xuất cá nước ngọt. Giá các loại cá như cá tra, cá rô phi, cá da trơn và cá chép có xu hướng thấp, không giống như các mặt hàng tôm và nuôi trồng thủy sản, và thức ăn có thể chiếm tới 80% chi phí sản xuất.

Trong một cuộc hội thảo về thức ăn thủy sản, Giáo sư Agus Suprayudi, một nhà dinh dưỡng học và nhà nghiên cứu từ Đại học IPB, đã từng nói rằng thức ăn chăn nuôi tốt không nên chỉ được đo lường về chất lượng mà còn phải tốt từ góc độ kinh doanh cho tất cả các bên liên quan trong chuỗi cung ứng, tốt cho các nhà chế biến thức ăn chăn nuôi, đại lý thức ăn chăn nuôi và bán lẻ, và cũng tốt cho nông dân về giá cả và chất lượng của nó.

Việc truy xuất nguồn gốc và tính bền vững của nguyên liệu thô cũng phải được xem xét, đặc biệt đối với thức ăn cho tôm, vì tôm của Indonesia chủ yếu được xuất khẩu sang Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản. Các thị trường này yêu cầu truy xuất nguồn gốc hoàn toàn - từ địa điểm trang trại, đến nguyên liệu thô của thức ăn chăn nuôi được sử dụng.

“Các nhà sản xuất thức ăn thủy sản làm thức ăn cho các loài sẽ được xuất khẩu đang bắt đầu xem xét những cơ hội này và thực hiện những thay đổi được cho là cần thiết,” Mulyono xác nhận.

Một vấn đề quan trọng khác là nguồn gốc của các thành phần thức ăn thay thế. Suprayudi lập luận rằng các bên liên quan đến thức ăn chăn nuôi phải sử dụng nhiều nguyên liệu thô tại địa phương hơn để họ không phụ thuộc vào nhập khẩu. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu tại chỗ phải được mở rộng quy mô công nghiệp.

Một số lựa chọn thay thế địa phương đã được thử là bột ấu trùng ruồi lính đen, bột hạt cao su (Hevea brasiliensis) và bột đậu rồng (Psophocarpus tetragonolobus). Chúng đã được thử nghiệm trên một số loài cá nước ngọt, bao gồm cá da trơn, cá rô phi và cá chép. Suprayudi cho biết kết quả rất hứa hẹn và tất cả các nguyên liệu thô này đều có hàm lượng protein dao động từ 41,27 - 45,35% và có cấu trúc axit amin thiết yếu tương tự như bột cá.

Sự hợp tác giữa các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra một hệ sinh thái hỗ trợ cho đổi mới nguyên liệu thô tại địa phương. Các viện sĩ phải tiến hành nghiên cứu phù hợp với nhu cầu của ngành.

Chính phủ có thể trợ giúp bằng cách ưu tiên phát triển những nguyên liệu thô có nguồn gốc địa phương, để các cơ quan nghiên cứu có thể tập trung vào chúng. Bằng sáng chế có thể đóng vai trò như một động lực cho các tổ chức thành công trong việc phát triển các nguyên liệu thô tại địa phương có thể được công nghiệp hóa.

Nguồn cấp dữ liệu chức năng sẽ là một xu hướng mới
Nếu chúng ta khám phá sâu hơn, việc phát triển các nguyên liệu thay thế để thay thế bột cá có thể hướng tới hai mục tiêu. Một là tìm kiếm nguyên liệu thô để bổ sung hoặc thay thế protein do bột cá cung cấp, hai là tìm kiếm nguyên liệu thô có chứa các axit amin thiết yếu đặc biệt cần thiết cho cá và tôm.

Chủ đề này là chuyên môn của Romi Novriadi, một nhà nghiên cứu và giảng viên tại Đại học Thủy sản Kỹ thuật Jakarta (Politeknik AUP). Novriadi cho rằng trọng tâm phát triển thức ăn cho cá và tôm trong tương lai có thể chuyển từ việc đảm bảo hàm lượng protein chính xác sang tối ưu hóa cấu hình axit amin thiết yếu tạo nên protein - hay nói cách khác là phát triển thức ăn chức năng.

Thị trường thức ăn chức năng chính hiện nay là những người nuôi tôm có kiến thức tốt về quản lý thức ăn và đang tìm kiếm dinh dưỡng cụ thể cho chương trình canh tác cụ thể của họ. Chương trình theo đuổi tốc độ tăng trưởng, sức khỏe hay cả hai cùng một lúc, tùy thuộc vào nhu cầu của tôm. Nguồn cấp dữ liệu chức năng đã được thiết kế để đáp ứng những thách thức cụ thể này.

 Các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi độc lập

Chủ tịch của APMN, Syafruddin Darmawan, cũng là một người nuôi cá tra, tuyên bố rằng trong nửa đầu năm nay, sản lượng thức ăn của APMN đã đạt 42.700 tấn. Tuy nhiên, ông ước tính sản lượng trong quý II sẽ giảm do sự hạn chế sau đợt Covid-19 thứ hai, bắt đầu vào đầu tháng Sáu.

Một trong những thách thức chính đối với những người sản xuất thức ăn chăn nuôi độc lập là sự sẵn có của các nguyên liệu thô thay thế. Họ cũng nên tìm kiếm các thành phần thay thế địa phương - cả nguồn gốc động vật và thực vật - cho bột cá và bột đậu nành.

Darmawan cho biết, việc áp dụng khoa học và công nghệ trong công thức thức ăn thủy sản chưa được sử dụng rộng rãi, mặc dù nó khá đơn giản.

Ông cũng khuyến khích chính phủ xây dựng một hệ thống hậu cần ở mỗi khu vực trồng trọt, nhằm giúp đảm bảo nguồn nguyên liệu sẵn có và liên tục với giá cả phải chăng cho mọi nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi độc lập.

Cũng như các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn, các doanh nhân cũng có cơ hội trong ngành thức ăn thủy sản. Một số người nuôi cá sáng tạo, những người cần thức ăn rẻ hơn cho cá của họ đã tìm cách tự chế biến thức ăn và thành lập Hiệp hội Thức ăn Độc lập Quốc gia Indonesia (Asosisi Pakan Mandiri Nasional / APMN). Hầu hết họ ban đầu tự sản xuất thức ăn cho mình, nhưng nếu hiệu quả sử dụng thức ăn tốt, họ có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất, phục vụ trước hết cho các hộ nông dân khác trong khu vực của họ. Hiện có 40 thành viên đã đăng ký APMN trên khắp Indonesia.

 

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin liên quan
Tin cùng chuyên mục