(vasep.com.vn) Nhằm ngăn chặn các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), Cơ quan Thủy sản Biển Quốc gia (NMFS) đã ban hành Quy tắc Đề xuất mở rộng Chương trình Giám sát Nhập khẩu Hải sản (SIMP) để bổ sung các loài hoặc nhóm loài và chống đánh bắt IUU và gian lận hải sản (NOAA-NMFS- 2022-0119).
Tuy nhiên, Quy tắc đề xuất của NMFS có phạm vi rất hẹp vì nó không đề xuất bổ sung một số loài có nguy cơ cao bị đánh bắt trái phép và lao động cưỡng bức. Quy tắc được đề xuất kết hợp một danh sách ngắn gồm 6 nhóm loài mới bao gồm mực nang, mực ống, bạch tuộc, lươn, ốc xà cừ nữ hoàng, tôm hùm gai Caribe và hai nhóm mở rộng: cá hồng và cá ngừ. Mặc dù sau đó NMFS đã bổ sung một số loài vào danh sách nhưng mức tăng khiêm tốn chỉ 5-10% về khối lượng trong phạm vi áp dụng của SIMP, khiến gần một nửa lượng thủy sản nhập khẩu không có đủ biện pháp kiểm soát nhập khẩu. Phạm vi bao phủ hẹp khiến các tác nhân xấu sẽ tiếp tục lợi dụng những “lỗ hổng” hiện có và, một lượng đáng kể hải sản từ IUU sẽ tiếp tục được NK vào thị trường Mỹ.
Hơn nữa, Quy tắc Đề xuất không nêu rõ phương pháp hoặc lý do của cơ quan để bao gồm hoặc loại trừ các loài cụ thể. Chẳng hạn, ghẹ xanh và cá minh thái là hai loài được cho là mục tiêu chính của đánh bắt IUU lại không được đưa vào danh sách mở rộng. NRDC phản hồi Quy tắc Đề xuất bằng cách phát triển và đề xuất với cơ quan một phương pháp mẫu dựa trên rủi ro mà có thể triển khai để xác định các loài ưu tiên mới. Tiêu chí của phương pháp này bao gồm các phân tích về mức độ phức tạp tương đối của chuỗi cung ứng, nguy cơ sản phẩm có thể bị dán nhãn sai và nguy cơ hành động đánh bắt IUU đi đôi với vi phạm lao động.
Tuy nhiên, Quy tắc đề xuất của NMFS có phạm vi rất hẹp vì nó không đề xuất bổ sung một số loài có nguy cơ cao bị đánh bắt trái phép và lao động cưỡng bức
Phân tích của NRDC đã chứng thực nguy cơ đánh bắt IUU tương đối cao đối với một số loài SIMP, cả hai loài hiện được lựa chọn (ví dụ: tôm, cá ngừ thật), đề xuất (ví dụ: mực, cá ngừ khác). NRDC đã xác định được một số loài, đơn cử như ghẹ xanh, cua tuyết và cá hồi, nằm trong số những loài có nguy cơ đánh bắt IUU cao nhất nhưng không được đưa vào Quy tắc Đề xuất trong khi một số loài hiện được bảo vệ như bào ngư hay cá tuyết lại có nguy cơ đánh bắt IUU thấp hơn nhiều. Kết quả phân tích trên làm NRDC về tính nghiêm ngặt và chính xác của quy trình mà NMFS đang dùng để lựa chọn các loài đưa vào Quy tắc đề xuất này.
NRDC khuyến nghị với cơ quan rằng NMFS nên bổ sung tối thiểu ghẹ, tất cả cá hồi và tất cả cá thu vào SIMP trong Quy tắc cuối cùng. NMFS cũng nên xuất bản một phương pháp luận định lượng, khách quan và có thể nhân rộng, mô tả quy trình của mình để đưa và loại trừ các loài trong SIMP dựa trên mức độ rủi ro liên quan đến loài đó.
NMFS nên tạo lập một bảng cho tất cả các loài chính trong thương mại hải sản của Mỹ. Phân loại loài nào đang được bảo vệ, được đề xuất hoặc không được bảo vệ theo SIMP hoặc việc mở rộng SIMP được đề xuất. Phân loại dựa trên độ phức tạp của chuỗi cung ứng, nguy cơ dán nhãn sai, IUU và vi phạm lao động, cũng như các vi phạm được xác định từ các cơ quan chức năng khác, bao gồm cả những vi phạm được xác định trong báo cáo Buôn bán người, Danh sách hàng hóa và Đánh cá bằng lưới trôi trên biển hai năm một lần Báo cáo Đạo luật bảo vệ tạm hoãn.
Hơn nữa, trong quá trình phát triển quy tắc, NMFS đã không tham khảo ý kiến của các cơ quan đối tác và các bên liên quan, khác với quy định SIMP trước đây của NMFS và các hành động liên quan. Do đó, cơ quan này đã bỏ lỡ cơ hội thu thập những hiểu biết sâu sắc và kiến thức chuyên môn quan trọng từ các cơ quan liên bang đối tác và từ một nhóm rộng rãi các bên liên quan bị ảnh hưởng bởi các vấn đề đánh bắt IUU, gian lận hải sản và lạm dụng lao động trong lĩnh vực hải sản.
Thuỳ Linh (Theo nrdc.org)