(vasep.com.vn) Nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ đang chiếm tỉ trọng ít hơn trong tổng sản lượng thuỷ sản của Liên Minh châu Âu so với năm 2015. Nguyên nhân là do một loạt các vấn đề trong ngành từ chi phí sản xuất đến những khó khăn gặp phải.
Tổng sản lượng thuỷ sản hữu cơ ở EU ước đạt 74.032 tấn vào năm 2020 trong đó Ireland dẫn đầu là nước với sản lượng lớn nhất.
Theo báo cáo “Nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ ở Châu Âu”, tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản chiếm tỉ trọng 6,4% của tổng sản lượng thủy sản của Châu Âu vào năm 2020. Sản lượng 74.032 tấn được sản xuất tăng 60% so với sản lượng năm 2015 (46.341 tấn). Mặc dù với mức tăng như vậy, ngành sản xuất thuỷ sản hữu cơ vẫn chưa bắt kịp được với mức tăng trưởng của toàn ngành nuôi trồng thuỷ sản ở Châu Âu. Năm 2015, sản xuất thuỷ sản theo phương pháp nuôi trồng hữu cơ chỉ chiếm 9,1% của tổng sản xuất cả ngành.
Tổng sản lượng tăng còn nhờ do việc mở rộng nuôi vẹm hữu cơ. Sản lượng vẹm hữu cơ ở Châu Âu đạt 41.936 tấn năm 2020, tương đương 10% tổng số vẹm được sản xuất từ Châu Âu, so với 18.379 tấn vào năm 2015. Các nước sản xuất chủ lực là Hà Lan, Italy, Đức, Ireland, Đan Mạch, Pháp, Tây Ban Nha và Bulgaria.
Các công ty nuôi trồng thủy sản Châu Âu đã sản xuất 12.870 tấn cá hồi hữu cơ vào năm 2020, 4.590 tấn cá hồi trout hữu cơ, 3.562 tấn cá chép hữu cơ, 3.228 tấn hàu hữu cơ và 2.750 tấn cá chẽm và cá tráp biển.
Ngành hàu hữu cơ, chủ yếu ở Pháp, đã tăng đáng kể sản lượng từ năm 2018 khi đó chỉ 900 tấn hàu được sản xuất tại Châu Âu.
Cơ quan Giám sát thị trường thủy sản châu Âu cho biết có tiềm năng phát triển đầy hứa hẹn đối với động vật có vỏ hữu cơ khi không có sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp sản xuất thông thường và hữu cơ. Ngoài ra, cũng không có rào cản kỹ thuật nào. Đan Mạch là ví dụ điển hình vì có chiến lược chứng nhận vẹm theo chương trình Chứng nhận hữu cơ của EU.
Sản xuất rong biển hữu cơ ở Châu Âu chủ yếu là từ tự nhiên, nhưng năm 2020, 586 tấn đã được sản xuất từ nuôi trồng, tập trung chủ yếu ở Tây Ban Nha. Đan Mạch, Bồ Đào Nha và Bulgaria cũng trồng được số lượng nhỏ. Theo EUMOFA, ngành sản xuất này được kì vọng sẽ tăng trưởng trong những năm tới khi mối quan tâm với sản phẩm này tăng.
Những loài khác được nuôi trồng hữu cơ với khối lượng nhỏ bao gồm cá tầm ở Tây Ban Nha, nghêu Nhật ở Italy cùng một vài loài cá và tôm nước ngọt trên toàn lục địa châu Âu.
Ngành sản xuất cá hồi hữu cơ ở Châu Âu giảm 1% trong năm 2018, điều này được EUMOFA giải thích là do sự sụt giảm của sản lượng sản xuất Ireland và do Brexit. Sản lượng cá hồi hữu cơ giảm 8% vào cùng khoảng thời gian, và sản xuất cá chép hữu cơ sụt giảm 49% giữa năm 2018 và 2020. Sản lượng cá mú và cá tráp đầu vàng Châu Âu tăng từ 2.000 tấn vào năm 2015 lên 2.750 tấn vào 2020, với phần lớn công đoạn chế biến được diễn ra ở Hy Lạp.
Trở ngại lớn trong việc gia tăng sản lượng cá hữu cơ nuôi trồng ở Châu Âu là chi phí gia tăng và khó khăn trong việc tuân thủ quy định. EUMOFA cho biết, với cá hồi hữu cơ, chi phí thức ăn cao hơn, mật độ nuôi trồng trong trại cá thấp hơn so với sản xuất thông thường; thêm vào đó là sự thiếu hụt cá con hữu cơ được chứng nhận, việc sử dụng thuốc phòng bệnh bị hạn chế và các yêu cầu về phúc lợi động vật cao hơn. Kết quả chung là các nhà sản xuất cá hữu cơ phải lập một mức giá cao hơn để hoạt động có lãi.
Mặc dù vậy, nhu cầu và nhận thức của người tiêu dùng về các chương trình hữu cơ tại Châu Âu là động lực chính để tiêu thụ tất cả các sản phẩm hữu cơ, với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 15%. Báo cáo cho thấy chương trình hữu cơ của riêng Châu Âu được biết đến nhiều hơn so với các chương trình khác, với mức độ nhận biết đạt mức 56% dân số Châu Âu năm 2020.
Một rào cản lớn ở một số quốc gia thành viên Châu Âu là sự thiếu gắn kết giữa quy định hữu cơ Châu Âu và các yêu cầu quốc gia, điều đó đặt ra cho các tổ chức chứng nhận một nhiệm vụ gần như bất khả thi. Một trở ngại khác là việc trộn lẫn cá hữu cơ và không hữu cơ trong nuôi ghép quảng canh cũng không được Chứng nhận hữu cơ EU cho phép. Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến các nhà sản xuất của các quốc gia thành viên ở phía đông Châu Âu, nơi có nhiều doanh nghiệp có truyền thống sản xuất cá chép hữu cơ trong cùng một hệ thống với các loài phi hữu cơ khác.
Mối quan tâm tiềm tàng đối với ngành nuôi trồng thủy sản trên cạn đang phát triển là hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) không được phép sử dụng cho mục đích nuôi trồng theo Chứng nhận hữu cơ EU. Tuy nhiên, chúng được phép sử dụng cho các trại ương giống.
Đối với những người nuôi động vật có vỏ của Liên minh Châu Âu, một quy định mới rằng chỉ những loài động vật có vỏ được nuôi ở các sông và cửa sông có xếp hạng cao nhất về tình trạng sinh thái mới được phép. Điều đó đã khiến các nhà sản xuất ở những vùng trồng trọt có chất lượng nước hỗn hợp không thể phát triển một chiến lược lâu dài cho sản xuất động vật có vỏ hữu cơ, theo báo cáo của EUMOFA.
Cuối cùng, báo cáo lập bảng triển vọng kết quả xấu và lạc quan về tăng trưởng của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản hữu cơ Châu Âu. Đối với động vật thân mềm, con số này dao động từ 33.000 tấn vẹm và hàu nếu không có các biện pháp khuyến khích quốc gia để chuyển sang sản xuất hữu cơ, lên đến 120.000 tấn nếu các chiến lược quốc gia khuyến khích tăng trưởng và phát triển ngành nuôi trồng thủy sản hữu cơ.
Với cá, trường hợp tệ nhất được EUMOFA dự đoán sản lượng tiếp tục thấp, ở khoảng 15.000 tấn - nếu tất cả rào cản kĩ thuật, chi phí sản xuất cao, và nhu cầu thấp vẫn tiếp tục tiếp diễn. Tuy nhiên, viễn cảnh lạc quan của EUMOFA được dự đoán là 125.000 tấn sản lượng nếu các rào cản kĩ thuật được dỡ bỏ và đạt được phí bảo hiểm giá, các thương nhân bán lẻ bắt đầu yêu cầu sản phẩm thuỷ sản hữu cơ như điều kiện để thâm nhập thị trường và nhu cầu của khách hàng gia tăng.
EUMOFA cũng chỉ ra rằng chương trình hữu cơ của Châu Âu phù hợp với chiến lược “Farm to Fork” của Châu Âu (từ nông trại đến bàn ăn) và có thể đạt được mức gia tăng đáng kể trong nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ vào năm 2030 cũng như giảm thiểu 50% việc sử dụng thuốc chống vi trùng cho cá nuôi.
(Theo seafoodsource)
Mỹ Hạnh