Sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu tăng 180% từ 2000-2019

(vasep.com.vn) Sản lượng nuôi trồng thủy sản trên toàn cầu đã có tốc độ tăng trưởng đáng kể gần 180% chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm, tăng từ 43 triệu tấn lên 120,1 triệu tấn từ năm 2000 đến 2019.

Theo bài báo trên Tạp chí Nuôi trồng Thủy sản Thế giới, 2019 đánh dấu cột mốc quan trọng trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản, sản lượng động vật đạt 85,4 triệu tấn, thực vật thuỷ sinh đạt 34,7 triệu tấn.  Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc tiếp tục thống trị chiếm 92% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản toàn cầu, 8% còn lại đến từ châu Mỹ, châu Âu, châu Phi và châu Đại Dương. 

Sản lượng nuôi trồng cá có vây toàn cầu đã tăng 170%, từ 20,8 triệu tấn năm 2000 lên 56,3 triệu tấn vào năm 2019. Trong số này, 86% được sản xuất trong đất liền, trong khi 14% là từ nuôi trồng thủy sản biển, chủ yếu được thực hiện ở Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Đại Dương.

Chú thích ảnh

Sản lượng nuôi trồng thủy sản trên toàn cầu đã có tốc độ tăng trưởng đáng kể gần 180% chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm

Cá chép, loài cá từng được nuôi rộng rãi vào 2000 đã giảm dần “sự thống trị” vào 2019. Ngược lại, cá rô phi và cá da trơn đã có sự tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn này, chiếm lần lượt 5 và 6% vào sản lượng cá có vây toàn cầu. Ngoài ra, cá hồi Đại Tây Dương cho thấy mức tăng khiêm tốn, chiếm 5% sản lượng cá có vây toàn cầu vào năm 2019.

Trong thời điểm này, giáp xác cũng là một loài chứng kiến sự tăng trưởng kinh ngạch từ 1,7 triệu tấn lên 10,5 triệu tấn, tốc độ tăng trưởng 520%. Giáp xác chiếm 12% sản lượng thủy sản nuôi động vật. Ba loài giáp xác khác chiếm phần lớn sản lượng giáp xác là tôm càng đỏ, cua đồng Trung Quốc và tôm sú.

Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS)

Chú thích ảnh

Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS)

Vai trò của các hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) đã mở rộng từ năm 2000 đến năm 2019, với việc tăng cường áp dụng, đa dạng hóa các loài được sản xuất. RAS đã trở thành một thành phần thiết yếu của nuôi trồng thủy sản hiện đại, cung cấp các hệ thống sản xuất bền vững và có kiểm soát cho các loài thủy sản khác nhau. Dù vậy, RAS có một vài nhược điểm nhất định, đặc biệt là tốn kém.  Để xây dựng và vận hành RAS đòi hỏi đầu tư đáng kể và lực lượng lao động lành nghề để quản lý thành công.

Ngoài ra, RAS có lượng khí thải carbon cao xét về nhu cầu thức ăn hỗn hợp và năng lượng tại chỗ, đặc biệt nếu có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch. RAS nước mặn phải đối mặt với những thách thức bổ sung do ăn mòn thiết bị.

Báo cáo lưu ý để tiếp tục mở rộng và tăng trưởng trong tương lai, ngành nuôi trồng thuỷ sản phải chú trọng đến tính bền vững, đa dạng hóa sản xuất, trao quyền cho các hệ thống thực phẩm địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu và thúc đẩy hợp tác. Ngành cần giải quyết các thách thức do biến đổi khí hậu gây ra và thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên liên quan để khai thác toàn bộ tiềm năng của nuôi trồng thủy sản.

Thuỳ Linh (Theo undercurrentnews)

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin liên quan
Tin cùng chuyên mục