Người tiêu dùng luôn cần sản phẩm an toàn, tiện ích. Dần dần, đời sống cao, thông tin đầy đủ, họ nghĩ tới muốn biết sản phẩm làm ra như thế nào. Nếu sản phẩm họ sử dụng có được từ bóc lột sức lao động và có phần hủy diệt môi trường thì họ cảm thấy có lỗi vì tiếp tay. Ý thức này có từ khá lâu, gần 60 năm trước và lan tỏa dần tới nay trên bình diện thế giới. Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO ban hành bộ tiêu chuẩn ISO 26000 dành riêng cho trách nhiệm xã hội trong tổ chức. ISO 26000 tích hợp vấn đề cốt lõi mang tính quốc tế về trách nhiệm xã hội – nó có nghĩa là gì, tổ chức cần vạch ra những vấn đề gì nhằm thực hiện trách nhiệm xã hội, và việc thực hành tốt nhất là gì để thực hiện trách nhiệm xã hội. ISO 26000 sẽ là công cụ về trách nhiệm xã hội mạnh nhất hỗ trợ các tổ chức đi từ ý tưởng tốt đến hành động tốt.(*)
Từ đó, khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility – CSR) định hình rõ nét, là sự cam kết của doanh nghiệp (DN) đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả DN cũng như phát triển chung của xã hội (*).
Với tình hình trên, nghĩ kỹ CSR còn có tầm quan trọng hơn các chương trình quản lý chất lượng. Bởi quản lý chất lượng có đôi lúc sai sót, có thể bào chữa do sơ suất. Nhưng CSR quá tệ thì do nhận thức của lãnh đạo DN chưa đúng tầm, khó thuyết phục khách hàng, người tiêu dùng. Trong diễn đàn kinh tế tư nhân diễn ra đầu tháng 5/2019 ở Hà Nội, ông Josh Madeira - Chuyên gia Seafoodwatch cho rằng: "Người tiêu dùng Mỹ không chỉ quan tâm đến thực phẩm tươi, sạch mà còn đảm bảo sản phẩm được tạo ra không phá hoại môi trường, hay vi phạm nhân quyền". Điều này càng thấy rõ tính tất yếu phải thực hiện CSR trong DN.
CSR gồm các nội dung chính:
- Trách nhiệm về hiệu quả kinh tế: Đảm bảo quyền và lợi ích của DN, nhà cung cấp, người lao động. DN có lợi nhuận, có tiền trả cho nhà đầu tư, nhà cung cấp, có lương, thưởng nhiều cho người lao động và nộp thuế đầy đủ.
- Trách nhiệm về tuân thủ luật pháp: Bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào đều hoạt động trong khuôn khổ của luật pháp, hoạt động đúng luật pháp nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người tiêu dùng (luật ATTP…), người lao động (luật LĐ, ATVSLĐ, BHXH…), cộng đồng, xã hội (luật Bảo vệ môi trường, luật Thuế...).
- Trách nhiệm về đạo đức kinh doanh: Tùy vào suy nghĩ, định hướng của người quản trị DN mà ý thức đạo đức kinh doanh đó được hình thành và tồn tại thông qua các bộ qui tắc ứng xử trong DN, văn hóa DN, các chính sách chất lượng, chính sách BVMT, mối quan hệ của nhà quản trị với người lao động, với khách hàng, với xã hội…
- Đóng góp cho cộng đồng: Thí dụ như tham gia an sinh, phúc lợi xã hội.(*)
Triển khai CSR ở VN có từ lâu, nhưng thời gian qua chưa được đón nhận đúng mức, chủ yếu do nhận thức, là do sự hiểu biết chưa đầy đủ của lãnh đạo DN về CSR; hiểu trách nhiệm xã hội DN chỉ đơn thuần được hiểu là các khoản đóng góp từ thiện; do nguyên nhân kinh tế, việc thực hiện CSR của DN cũng gây ra những khó khăn không nhỏ cho các DN do thiếu nguồn vốn và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực CSR. Cuối cùng do pháp lý, do sự khác biệt giữa luật Lao động (LĐ) và bộ quy tắc ứng xử của khách đặt hàng gây khó khăn cho DN và bản thân Luật LĐ còn nhiều điểm chưa sát thực tế.
Điều dễ thấy thực hiện CSR trong ngắn hạn có thể làm chi phí tăng, nhưng xét về lâu dài lợi ích mà DN có được rất lớn so với chi phí bỏ ra. Đó là:
- Nâng cao hình ảnh DN, tạo niềm tin cho các bên.
- Cơ hội để đạt được lợi thế cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng hơn và xâm nhập được vào thị trường mới có yêu cầu cao.
- Có mối quan hệ tốt hơn với khách hàng và có được các khách hàng trung thành.
- Có vị thế tốt hơn trong thị trường lao động và thể hiện cam kết rõ ràng về các chuẩn mực đạo đức và xã hội giúp cho DN dễ dàng thu hút được các nhân viên giỏi, có kỹ năng.
- Tỷ lệ sử dụng lao động cao hơn nhờ giảm thiểu các vụ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Giảm mức độ thay đổi về nhận sự (giảm số lao động nghỉ việc =>tăng năng suất, giảm chi phí huấn luyện khi tuyển lao động mới)
- Nâng cao tinh thần và sự trung thành của nhân viên với DN nhờ điều kiện làm việc tốt hơn.
- Giảm chi phí về việc tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, điện nước, không sử dụng chất cầm trong sản xuất và môi trường bên ngoài... từ việc áp dụng hiệu quả CSR.
- Tránh được các khoản tiền phạt do vi phạm quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội.(*)
Các DN CB thủy sản, nhìn chung có các mặt mạnh trong thực hiện CSR như:
- SXKD có lãi, nộp thuế đầy đủ và thù lao lao động phù hợp.
- Chấp hành tốt pháp luật.
- Chú trọng bảo vệ môi trường thông qua đầu tư hệ thống xử lý nước thải hoàn thiện.
- Chú trọng chăm lo điều kiện lao động như trang bị đủ BHLĐ, môi trường lao động.
- Chăm lo thu nhập người lao động như lương, thưởng: đóng các quỹ BHXH, BHYT, BHTN.
- Có chú ý giảm giờ làm.
- Nỗ lực để người lao động hưởng đủ số ngày nghỉ theo quy định…
Tuy nhiên vẫn còn một số khiếm khuyết, có nguyên nhân khách quan.Yêu cầu của khách hàng và các bộ luật của ta có nhiều điểm không tương đồng. Luật LĐ hiện hành còn có những điểm quá cứng nhắc, chưa đi sát vào thực tiễn và phức tạp, chưa chặt chẽ dẫn đến nhiều doanh nghiệp khó lòng đáp ứng trong thực tế mà phải đối phó để đáp ứng được. Dẫn chứng là quy tắc, tiêu chuẩn của khách hàng không khác biệt so với luật mà có yêu những cầu cao hơn so với luật. Chẳng hạn như:
+ Luật quy định cho phép sắp xếp cho người lao động nghỉ đủ 4 ngày trong tháng, còn tiêu chuẩn khách hàng là làm việc liên tục không quá 7 ngày, có nghĩa là mỗi tuần phải có ngày nghỉ.
+ Trong tháng có 5 ngày chủ nhật thì phải sắp xếp cho người lao động nghỉ 5 ngày.
Luật LĐ còn có những quy định quá cứng nhắc, chưa sâu sát gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ và sử dụng nhiều lao động như thủy sản. Đơn cử như giờ làm thêm quá thấp (30 giờ/tháng, 300 giờ/năm) sẽ không thể giải quyết được lượng nguyên liệu rất lớn khi vào vụ. Ngoài ra còn những điểm khác cũng chưa sát thực tế như:
+ Quy định xử lý kỷ luật người lao động phức tạp, muốn xử lý được người lao động dù nhẹ như khiển trách cũng phải tổ chức cuộc họp gồm nhiều bên và phải có mặt người lao động, hay không được xử lý người lao động nữ đang mang thai, đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Điều này trở thành kẽ hở để người lao động lợi dụng vi phạm mà không bị xử lý.
+ Một vết cắt nhẹ, vết đâm nhẹ trên tay người lao động cũng phải báo cáo, phải thành lập đoàn điều tra tai nạn và phải đưa ra phương án để hạn chế trong khi chỉ cần một sơ suất nhỏ của người lao động là chuyện này đã xảy ra.
+ Tiền lương đóng BHXH tính trên tổng thu nhập gây áp lực lớn về chi phí cho doanh nghiệp, giảm sức cạnh tranh quốc tế.
Một thiếu sót cũng khá phổ biến là đa phần DN chưa có bộ máy chuyên lo CSR cũng như chưa đủ các quy trình, quy chế cho các việc phạm vi lao động, giờ làm, thù lao…
Tóm lại, bây giờ CSR đang được xem như là một trong những chiến lược kinh doanh hàng đầu của DN hơn là những quy định bắt buộc; đồng thời đang dần trở thành một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá DN, sẽ hỗ trợ DN thực hiện sứ mệnh của mình, bảo vệ danh tiếng và gia tăng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, các DN CB thủy sản cần có sự chuẩn bị và thực hiện tốt nhất CSR để nâng tầm DN, góp phần đưa ngành thủy sản ngày một vững vàng, mạnh mẽ hơn.
(*): Sao chép tài liệu từ Internet.
TS Hồ Quốc Lực - Nguyên Chủ tịch VASEP, Chủ tịch FIMEX VN