Nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu lực và được đưa vào thực thi trong năm 2020 đã tạo thuận lợi giúp hàng hóa của nước ta xuất khẩu ra nước ngoài.
Đòn bẩy FTA
Là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta song thủy sản đã chịu ảnh hưởng nặng nề do đại dịch Covid-19. Sau khi giảm liên tục trong nửa đầu năm do ảnh hưởng của dịch Covid-19, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam bắt đầu hồi phục từ tháng 7. Đặc biệt, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 8-2020 đã giúp thủy sản liên tục có tăng trưởng hai con số từ tháng 9.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, thị trường EU hồi phục mạnh từ tháng 9 với mức tăng 19-30%. Ước tính xuất khẩu thủy sản sang EU (trừ Anh) trong năm 2020 đạt khoảng 992 triệu USD. Dù con số này có giảm nhẹ so với năm 2019, song là kết quả tương đối khả quan trong một năm nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng bị ảnh hưởng nặng nề do Covid-19.
EVFTA là một trong những hiệp định thương mại tự do đã được các doanh nghiệp tận dụng rất hiệu quả trong năm 2020. Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh nêu rõ: “Hàng Việt Nam đã tiếp cận, khai thác hiệu quả những cơ hội của các thị trường, đặc biệt các thị trường mà chúng ta có được các FTA trong năm 2020. Ngay cả với CPTPP, khu vực kinh tế thương mại còn nhiều điều kiện rất xa lạ với chúng ta cũng đã được khai thác tốt, trong đó tiêu biểu là các thị trường mới như Mexico, Chile hay Canada”.
Thống kê của Bộ Công thương cho thấy, năm 2020, sự tăng trưởng đột biến trong xuất khẩu hàng hóa không phải chỉ thông qua giá trị tuyệt đối của kim ngạch xuất khẩu mà ngay cả tỷ lệ khai thác, sử dụng các mẫu chứng nhận xuất xứ (C/O) cho những ưu đãi ở khu vực thị trường mới có FTA đã thường xuyên đạt được mức độ từ 30% đến hơn 80%. Đó chính là yếu tố tạo ra cơ hội tăng trưởng và tăng trưởng bền vững trong cán cân thương mại song phương với các quốc gia này. Thêm vào đó, rất nhiều các lĩnh vực ngành hàng mới đã được khai thác và sử dụng các mẫu C/O này, không chỉ gói gọn trong các nhóm hàng hàng nông sản.
Đơn cử, kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, các tổ chức được ủy quyền đã cấp hơn 62.500 bộ chứng nhận xuất xứ (C/O) để hưởng ưu đãi tại thị trường EU với kim ngạch hơn 2,35 tỷ USD ngay trong năm 2020. Các mặt hàng đã được cấp C/O chủ yếu là giày dép, thủy sản, nhựa và các sản phẩm nhựa, cà phê, hàng dệt may, túi xách, va li, rau quả, sản phẩm mây, tre, đan; nông sản; hàng điện tử... Điều này cho thấy, hiệu quả khai thác lợi ích ngay sau khi Hiệp định được đưa vào thực thi là rất tốt.
Đối với thị trường các nước CPTPP, kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường là thành viên CPTPP đạt mức tăng tốt. Năm 2020, xuất khẩu sang Canada duy trì mức tăng trưởng dương, đạt 4,35 tỷ USD, tăng 11,9%; xuất khẩu sang Mexico đạt 3,17 tỷ USD, tăng 12,2%...
Ngoài ra, việc khai thác mở cửa các thị trường và tham gia các FTA thì việc đón làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng rất nhanh. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực sản xuất, mà còn cải thiện trình độ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, củng cố xu thế bền vững trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng như sản xuất. Đặc biệt là giúp cho các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp cận vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.
“Đây là một điều kiện rất cơ bản. Bởi vì chỉ khi có điều kiện tiếp cận với các doanh nghiệp FDI và chuỗi giá trị thì chúng ta mới có cơ hội để phát triển bền vững trong phạm vi toàn cầu”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu rõ.
Tận dụng hiệu quả “đường cao tốc”
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh chia sẻ thêm, tại buổi lễ ký kết Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam-EU, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ví von: “Con đường cao tốc đã được mở ra”. Vấn đề là phải làm gì để tất cả mọi phương tiện đều có thể tiếp cận và di chuyển trên hệ thống xa lộ này.
Với một khu vực kinh tế thương mại khu vực có liên kết, kết nối thông qua các hiệp định thương mại tự do lên tới 17 FTA hiện nay và còn 3 Hiệp định đang đàm phán… ta hoàn toàn có đủ dư địa, có điều kiện để định hướng cho phát triển đất nước một cách bền vững trong chiến lược dài hạn sắp tới. Vấn đề còn lại là việc tổ chức thực thi các Hiệp định này có hiệu quả.
Theo đó, Bộ Công thương định hướng sẽ tiếp tục tổ chức xây dựng, hoàn thiện hệ thống khuôn khổ luật pháp để hướng tới sự phát triển mang tính văn minh, tiến bộ của đất nước, của xã hội, của nền kinh tế. Trong đó, tập trung tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật để không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị nắm bắt và thực thi hiệu quả, mà doanh nghiệp, người dân cũng phải thực sự trở thành chủ thể đích thực của quá trình hội nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác tối đa những lợi ích từ các FTA.
Ngoài ra, hội nhập mang lại tất cả những cơ hội nhưng cũng có những thách thức. Vì vậy, phải có các kế hoạch để thực hiện và cụ thể những đề án, nhất là trong tái cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và tổ chức lại theo quan điểm, cách tiếp cận mới của chuỗi cung ứng trong bối cảnh chúng ta có dư địa, có không gian rộng lớn của hội nhập.
“Còn một nhiệm vụ cũng rất quan trọng, đó là tiếp tục xây dựng môi trường kiến tạo, hướng mạnh vào người dân, doanh nghiệp, lấy người dân, doanh nghiệp làm mục tiêu”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu rõ.
Về phía các doanh nghiệp, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam nêu vấn đề, dệt may là ngành được hưởng lợi lớn từ hội nhập kinh tế. Nếu như năm 1999, xuất khẩu dệt may chỉ đạt 1,75 tỷ USD, thì đến năm 2019 đã tăng lên 39 tỷ USD, đứng thứ 3 thế giới sau Trung Quốc, Bangladesh. Tuy nhiên, khâu yếu nhất của ngành dệt may là phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu. Cả CPTPP và EVFTA đều yêu cầu rất chặt chẽ về quy tắc xuất xứ. Do đó, doanh nghiệp dệt may kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể chủ động sản xuất vải, sợi. Có như vậy, ngành dệt may mới được hưởng nhiều hơn lợi ích từ các FTA.
(Theo báo Nhân Dân)