Tiềm năng xuất khẩu surimi Việt Nam

(vasep.com.vn) Tại Hội nghị toàn thể Hội viên VASEP năm 2024 tổ chức ngày 10/6/2024, ông Ngô Minh Phương - CEO Công ty TNHH Việt Trường đã có bài tham luận về tiềm năng xuất khẩu surimi Việt Nam, những khó khăn, thách thức và một số chia sẻ, kiến nghị để phát triển bền vững ngành hàng.

Chú thích ảnh

Kim ngạch XK surimi của Việt Nam mỗi năm đạt từ 300-420 triệu USD (Surimi cá biển+ cá tra), chiếm 4-5% tổng kim ngạch XK thuỷ sản Việt Nam. Sản lượng xuất khẩu ổn định, có xu hướng phát triển tốt.

Người tiêu dùng ưa chuộng surimi vì có giá trị dinh dưỡng cao, chi phí hợp lý, dễ chế biến thành nhiều món ăn (chả viên, xúc xích, thanh cua, sản phẩm GTGT ăn liền).

Đặc thù nguồn nguyên liệu sản xuất surimi chủ yếu đến từ những loài cá tạp nhỏ (cá đổng, mắt kiếng, phèn, bánh đường, cá chuồn, phế liệu cá tra như dè vụn ...) là những loại nguyên liệu phổ biến và phù hợp với nghề cá khai thác trong nước.

Sản xuất surimi giúp nâng cao giá trị nguyên liệu của ngư dân

Ngành surimi mang lại nhiều giá trị như tạo công ăn việc làm cho trung bình 200-300 lao động/nhà máy với tổng cộng 8.000-12.000 lao động/40 nhà máy.

Ngành này giúp nâng cao giá trị nguyên liệu của ngư dân vì sản xuất surimi có thể sử dụng các loại cá tạp cá nhỏ, giúp bà con tiêu thụ được với giá thành cao hơn từ 40-50% so với việc sử dụng vào các mục đích khác như làm thức ăn thủy sản, gia súc ...

Bên cạnh đó, ngành surimi còn góp phần bảo vệ biển đảo và an ninh quốc gia: Ngư dân ngoài bám biển, bám ngư trường khai thác, đánh bắt hải sản để phát triển kinh tế, họ còn góp phần bảo vệ an ninh trật tự trên biển, bảo vệ chủ quyền vùng biển của quê hương.

Phế surimi là nguyên liệu chính để sản xuất bột cá, làm thức ăn thủy sản, giảm nhập siêu bột cá, thức ăn chăn nuôi, đảm bảo kinh tế tuần hoàn.

Một số vướng mắc ngành phải đối mặt

1. Thiếu sự quy hoạch vĩ mô của nhà nước. Bất cân đối giữa nguồn lợi hải sản so với số lượng nhà máy được phép hoạt động.

Nguồn nguyên liệu đầu vào có hạn, lại ngày càng giảm sút. Nhà máy cũ thiếu nguyên liệu sản xuất nhưng nhà máy mới vẫn mọc ra. Dẫn đến việc giành giật về nguyên liệu sản xuất. Đẩy giá nguyên liệu lên cao làm tăng giá thành sản xuất, DN thua lỗ.

Doanh nghiệp xin kiến nghị với Sở NN, Sở TNMT, Sở KHĐT...các địa phương rà soát kỹ hơn nguồn lợi khai thác.

Rà soát giấy phép hoạt động của các DN mới và cũ. Đảm bảo việc phát triển bền vững giữa nguồn lợi khai thác và số lượng nhà máy tại địa phương.

2. Nhiều thị trường bị tắc nghẽn khi khách hàng cần CC (EU hoặc các nước NK về chế biến sản phẩm để XK đi EU như Thái Lan, Indonesia...). Buộc DN phải bỏ thị trường này để tìm kiếm thị trường khác.

Vẫn biết giải quyết bài toán IUU là câu chuyện lớn, phức tạp và lâu dài nhưng DN rất mong các cơ quan ban ngành đẩy nhanh tiến độ để gỡ rối cho DN.

3. Chưa có quản lý nghề theo mùa vụ, đặc biệt vào mùa sinh sản, dẫn đến việc ngày càng suy thoái, thậm chí là cạn kiệt nhiều đối tượng đánh bắt hải sản. Trong khi đa số các nước xung quanh hoặc các nước trên thế giới đều đã có việc kiểm soát khai thác, thậm chí cấm tàu bè ra khơi khai thác vào các thời điểm cá sinh sản như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…

4. Vấn đề nước thải nhà máy: Đặc thù ngành hàng surimi là sản xuất cần nhiều nước, trung bình trên 20m3/tấn sản phẩm -> chi phí xử lý rất cao (khoảng 25k/m3), 1 nhà máy quy mô trung bình khoảng 400 tấn thành phẩm/tháng thì chi phí xử lý nước thải khoảng = 20m3/tấn x 25k/m3 x 400 tấn/tháng = 200 triệu/tháng…

Các doanh nghiệp loay hoay tự xoay sở để tìm giải pháp từ các công ty tư vấn môi trường trong nước hoặc nước ngoài nhưng chưa tìm ra phương án tối ưu.

DN mong có giải pháp giải quyết triệt để vấn đề này. Giải pháp có thể đến từ các tổ chức liên quan như tổ chức phi chính phủ, hoặc các tổ chức có dự án phát triển sản xuất xanh có công nghệ, tài chính…

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin liên quan
Tin cùng chuyên mục

  • Trang chủ - Right- BOTTOM
  • Trang chủ - Right - BOTTOM