(ĐTCK) Đại biểu Quốc hội cho rằng, nhu cầu vay vốn của cá nhân và doanh nghiệp khá cao, nhất là trong bối cảnh triển khai hỗ trợ 2% của gói 40.000 tỷ đồng; tuy nhiên, nhiều ngân hàng trong tình trạng hết "room" tín dụng.
Chiều 8/6, phiên chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng diễn ra, xung quanh một số vấn đề doanh nghiệp và người dân quan tâm như tiếp cận vốn ưu đãi, sở hữu chéo ngân hàng, giá vàng cao bất thường...
Đại biểu Quốc hội: Cấp room tín dụng "có dáng dấp quản lý không phù hợp"
Đại biểu Trịnh Xuân An (đoàn Đồng Nai) hỏi: Nhu cầu vay vốn của cá nhân và doanh nghiệp khá cao, nhất là trong bối cảnh triển khai hỗ trợ 2% của gói 40.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng trong tình trạng hết "room" tín dụng và đề xuất với Ngân hàng Nhà nước nới thêm hạn mức tín dụng để góp phần hỗ trợ tăng trưởng.
“Xin Thống đốc cho biết tính hợp lý của cơ chế cấp hạn mức tín dụng hàng năm của các ngân hàng thương mại hiện nay? Cơ chế này có phải can thiệp vào hoạt động của ngân hàng hay không? Khả năng nới room tín dụng trong thời gian tới như thế nào?”, ông An đặt vấn đề.
Đại biểu đoàn Đồng Nai cũng đánh giá cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc xử lý tình trạng sở hữu chéo. Về số lượng, không còn cặp sở hữu chéo nào, nhưng ông An cho rằng “vẫn còn đâu đó bên trong sự lòng vòng, lắt léo nhiều quan hệ, nhóm lợi ích đan xen”.
“Thực tế, ai cũng biết có những ngân hàng mà khi đọc tên thôi thì đứng đằng sau đó là những doanh nghiệp, cá nhân nào. Đề nghị Thống đốc đưa ra giải pháp để xử lý chặt chẽ vấn đề này”, ông An nói.
Đánh giá về câu hỏi của đại biểu An, Chủ tịch Quốc hội nhận xét, “đây là câu hỏi rất hay, lần đầu Quốc hội chất vấn việc phân bổ hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại, từ trước nay chưa có nội dung này. Các ngân hàng thương mại cũng rất quan tâm nội dung này”.
Trả lời đại biểu đoàn Đồng Nai, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho hay, với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, vốn đầu tư dựa rất lớn vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Hiện nay, dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đang ở mức 124% và theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, đây là tỷ lệ thuộc nhóm cao nhất toàn cầu.
Khi nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng, mỗi khi có cú sốc như Covid-19, biến động tình hình kinh tế thế giới, doanh nghiệp và người dân khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ lập tức ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng. Nếu hệ thống ngân hàng có vấn đề, mất khả năng chi trả… thì sẽ hệ lụy đến cả nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra là kiểm soát tăng trưởng tín dụng. Trên thực tế, Ngân hàng áp dụng biện pháp này từ những năm 2011 và thấy đây là biện pháp hiệu quả trong tổ chức điều hành, chính vì vậy, đã đưa thị trường tiền tệ, tín dụng ổn định trở lại.
"Trước đây khi không có chỉ tiêu kiểm soát, các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng rất cao, cá biệt có những năm tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống lên đến 53,8%”, bà Hồng nhấn mạnh.
Vừa qua, Thủ tướng cũng đã chỉ đạo các bộ, ngành nghiên cứu phát triển thị trường vốn, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn vay trung, dài hạn từ những kênh này và chỉ vay vốn ngắn hạn từ ngân hàng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi đó, áp lực trong kiểm soát tín dụng của Ngân hàng Nhà nước sẽ bớt đi.
Đối với tình trạng sở hữu chéo lòng vòng, có thể có cổ đông cố tình giấu tên hoặc nhờ đứng tên, bà Hồng cho rằng phải có cơ quan xác minh.
Hiện nay, Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Công an có kết nối với hệ thống dữ liệu công dân để minh bạch các giao dịch (cụ thể là qua căn cước công dân gắn chíp).
“Sau này, các giao dịch của nền kinh tế ngày càng minh bạch hơn, việc phát hiện ra các vấn đề không trung thực, nhờ người đứng tên, cố tình che giấu sẽ dễ dàng hơn”, Thống đốc nhận định.
Tranh luận lại về cơ chế cấp hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm dành cho các ngân hàng, đại biểu Trịnh Xuân An cho rằng việc này "có dáng dấp quản lý không phù hợp".
Việc cấp hàng năm sẽ dẫn tới chuyện năm nào cũng cấp lại, cần thì ngân hàng lại xin để nới room, các nước có chuyện này hay không?
Doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận vốn ưu đãi
Đại biểu Nguyễn Văn Thân (đoàn Thái Bình) chất vấn: Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn kêu lãi suất cao, tiếp cận vốn ngân hàng khó khăn. Ngoài ra, 2% ngân sách nhà nước hỗ trợ ngành ngân hàng bù đắp lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp được triển khai đến đâu?
Trả lời câu hỏi trên, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, 5 tháng đầu năm 2022, điều hành chính sách lãi suất chịu nhiều áp lực từ bên ngoài. Lạm phát đang có xu hướng toàn cầu, ngân hàng trung ương các nước đều có xu hướng tăng lãi suất, từ 2021 có khoảng 100 lượt tăng lãi suất và 5 tháng đầu năm 2022, các ngân hàng trung ương cũng tăng khoảng 135 lượt tăng lãi suất.
Trong nước, lãi suất phụ thuộc vào cung cầu vốn. Từ đầu năm đến nay, khi sản xuất kinh doanh quay trở lại, tín dụng đã tăng lên đến 8%. Đây là mức khá cao so với mục tiêu định hướng của cả năm 2022 là 14%.
"Áp lực lớn nhưng Ngân hàng Nhà nước đã điều tiết, cơ bản ổn định mặt bằng lãi suất, chỉ tăng 0,09% so với đầu năm ngoái", bà Hồng cho hay.
Trong Nghị quyết 43 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, quan điểm của Chính phủ là thực hiện chương trình phục hồi kinh tế nhưng vẫn phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước cũng cần điều hành trên cơ sở tổng thể với tất cả công cụ khác. Ngân hàng chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết kiệm chi phí trong hoạt động để giảm lãi suất và hỗ trợ các doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn.
Theo bà Hồng, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 97% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khối doanh nghiệp này có nhiều điều kiện hạn chế như tài chính, khả năng quản trị, thương hiệu hàng hóa... nên độ xếp hạng tín nhiệm chưa cao.
Khi vay vốn, các tổ chức tín dụng phải đánh giá tín nhiệm để đưa ra mức lãi suất, lãi cho doanh nghiệp tín nhiệm thấp phải cao hơn so với doanh nghiệp có độ tín nhiệm cao.
Trong thời gian dịch bệnh, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện giảm lãi suất cho doanh nghiệp và người dân. Trong hai năm, tổng lãi suất giảm khoảng 47.000-48.000 tỷ đồng. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có hạn chế nên nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện để vay vốn các ngân hàng. Các tổ chức tín dụng cũng phải thực hiện nguyên tắc khi cho vay thì khách hàng phải đảm bảo có khả năng trả nợ, vì tiền cho vay cũng là huy động của người dân.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có quỹ bảo lãnh tín dụng. Hiện cả nước có khoảng 29 quỹ ở các địa phương. “Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp với bộ ban ngành tháo gỡ khó khăn", bà Hồng thông tin.
Mỹ Hạnh (Theo Tin nhanh chứng khoán)