Xuất khẩu cá ngừ, cua ghẹ và cá biển khác đều tăng trong năm 2019

(vasep.com.vn) Năm 2019, XK hải sản Việt Nam đạt trên 3,2 tỷ USD, tăng 7,5% so với năm 2018, chủ yếu tăng ở cá ngừ (tăng 10,2% đạt 719,5 triệu USD), cua ghẹ giáp xác khác (tăng 11% đạt gần 149 triệu USD) và các loại cá biển khác (tăng 16,2% đạt 1,7 tỷ USD). Trong đó tới 65-70% doanh số thu được từ cá ngừ và cá biển khác là từ nguồn nguyên liệu NK. XK mực, bạch tuộc năm 2019 giảm 14,2% đạt 576,7 triệu USD.

Riêng trong tháng 12/2019, XK hải sản của Việt Nam đạt gần 263,2 triệu USD, giảm 1,7% so với tháng 12/2018. Trong đó, XK cá ngừ đạt 50,5 triệu USD, giảm 9,2%, XK cá biển khác (trừ cá ngừ) đạt trên 147 triệu USD, tăng 20%, XK mực, bạch tuộc đạt 45,5 triệu USD, giảm 30,5% và XK nhuyễn thể hai mảnh vỏ tăng 8% đạt 8,7 triệu USD, XK cua ghẹ và giáp xác khác giảm 30,7% đạt gần 11 triệu USD.

XK hải sản tăng chủ yếu ở các thị trường khác, trong khi XK sang thị trường EU sụt giảm khoảng 10%, trong đó cá ngừ giảm 11,8%, mực, bạch tuộc giảm 19,3% và từ thị trường NK hải sản lớn thứ 2 của Việt Nam, EU đã tụt xuống thứ 5 sau Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Kết quả này đã phản ánh hệ lụy của thẻ vàng IUU đối với XK hải sản của Việt Nam trong thời gian qua. EU đang là thị trường NK cá ngừ đứng thứ 2 sau Mỹ, chiếm 19,4% XK cá ngừ Việt Nam. Đối với mực, bạch tuộc EU là thị trường đứng thứ 4 sau Hàn Quốc, Nhật Bản và ASEAN, chiếm 11,6%.

XK mực, bạch tuộc năm 2019 giảm 14,2% đạt 576,7 triệu USD, không chỉ giảm ở thị trường EU mà hầu hết các thị trường NK chính. Nguồn nguyên liệu khan hiếm, khó cạnh tranh với các nguồn cung khác tại các thị trường NK khiến XK liên tục sụt giảm.

Cá ngừ: Năm 2019, XK cá ngừ của Việt Nam đạt 719,5 triệu USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2018 trong đó XK cá ngừ mã HS 03 tăng 19,8%, cá ngừ mã HS 16 giảm 0,6%. Việt Nam XK nhiều nhất là cá ngừ loin/phile đông lạnh với 368,4 triệu USD, tiếp đến là cá ngừ hộp với trên 181 triệu USD, các sản phẩm chế biến khác khoảng 123 triệu USD, còn lại là cá ngừ tươi/đông lạnh với trên 46,8 triệu USD.

Mỹ vẫn là thị trường NK cá ngừ lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 44% trong tổng giá trị XK cá ngừ của Việt Nam đi các thị trường. Năm 2019, XK cá ngừ Việt Nam sang Mỹ tăng trưởng tốt 37,8% đạt 316,3 triệu USD. EU là thị trường NK lớn thứ 2, chiếm tỷ trọng 19,4%. Trong 3 thị trường NK lớn nhất trong khối EU (Tây Ban Nha, Italy, Hà Lan), XK cá ngừ sang Italy tăng, XK sang hai thị trường còn lại giảm.

Mực, bạch tuộc: Năm 2019, XK mực, bạch tuộc của Việt Nam đạt 576,7 triệu USD, giảm 14,2% so với năm 2018. Năm 2019, XK mực, bạch tuộc Việt Nam chỉ tăng trong hai tháng 1 và 3/2019, các tháng còn lại đều giảm.

Trong tổng cơ cấu mực, bạch tuộc XK của Việt Nam, bạch tuộc chiếm tỷ trọng cao hơn với 50,8%, còn lại mực chiếm 45,4%. Việt Nam vẫn chủ yếu XK các sản phẩm mực, bạch tuộc sống/tươi/đông lạnh (chiếm tỷ trọng 71%), các sản phẩm chế biến vẫn chưa nhiều (chiếm 29%).

Năm 2019, XK tất cả các mặt hàng mực, bạch tuộc của Việt Nam đều giảm trong đó XK mực giảm 24,4%, XK bạch tuộc giảm 10%. Mực khô/nướng (HS 03) giảm mạnh nhất 25,8% so với năm 2018.

Hàn Quốc vẫn là thị trường NK mực, bạch tuộc lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 39,9% tổng XK mực, bạch tuộc của Việt Nam đi các thị trường. Năm 2019, XK mực, bạch tuộc sang Hàn Quốc đạt hơn 230 triệu USD, giảm 14,8% so với năm 2018. Sau khi tăng trưởng liên tục trong 4 tháng đầu năm 2019, XK mặt hàng này sang Hàn Quốc giảm liên tục từ tháng 5 đến hết năm 2019.

Trong cơ cấu sản phẩm mực, bạch tuộc của Việt Nam XK sang Hàn Quốc, bạch tuộc vẫn chiếm ưu thế với 75%, còn lại mực chiếm 25%. Hàn Quốc chủ yếu NK các sản phẩm mực, bạch tuộc từ Việt Nam như mực khô lột da, mực chế biến làm sạch đông lạnh, mực sushi đông lạnh, bạch tuộc nguyên con làm sạch đông lạnh, bạch tuộc cắt khúc ướp đá…

Nhật Bản, thị trường NK mực, bạch tuộc lớn thứ 2 của Việt Nam, NK 140,5 triệu USD mực, bạch tuộc từ Việt Nam trong năm 2019, giảm 8,9% so với năm 2018. XK mực, bạch tuộc Việt Nam sang Nhật giảm liên tục từ tháng 8 đến hết năm 2019.

Tỷ trọng mực và bạch tuộc của Việt Nam xuất sang Nhật Bản gần tương đương. Trong cơ cấu mực, bạch tuộc của Việt Nam XK sang Nhật Bản, mực tươi/đông lạnh (HS 03) chiếm tỷ trọng cao nhất.

Năm 2019, ASEAN vươn lên là thị trường NK mực, bạch tuộc lớn thứ 3 của Việt Nam. Năm 2019, XK mực, bạch tuộc Việt Nam sang thị trường này đạt 70,3 triệu USD, giảm 14,7% so với năm 2018.

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin cùng chuyên mục