Nguồn lợi nghêu và rủi ro từ môi trường

Nghêu là một trong 4 thủy sản nuôi trồng chủ lực của Việt Nam (cùng với tôm, cá tra, cá rô phi) và được ưa chuộng tại nhiều thị trường trên thế giới, đặc biệt ở EU.

Tuy nhiên, nghêu nhạy cảm với môi trường nên có nhiều rủi ro cho người nuôi trong tình hình biến đổi khí hậu.

Để phát huy nguồn lợi cần xây dựng chuỗi giá trị nghêu.  

Tăng trưởng nhanh

Diện tích nuôi nghêu (cùng một ít sò và hàu) cả nước từ 28.133ha năm 2011 lên hiện nay 40.685ha và sản lượng tăng từ 157.000 tấn lên gần 300.000 tấn. Trước đây chủ yếu khai thác tự nhiên, tiêu thụ nội địa, dần dần được cải tiến nuôi để xuất khẩu và theo Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, năm 2018 đạt kim ngạch 88,7 triệu USD, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.

Các thị trường chính là EU, Mỹ, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, Australia; tạo công văn việc làm cho khoảng 200.000 lao động. Mục tiêu năm 2020, diện tích nuôi tăng lên 48.370ha, năng suất trung bình 8,27 tấn/ha, kim ngạch xuất khẩu tăng.

Nghêu nước ta chủ yếu là giống Meretrix lyrata, được khai thác lâu đời ở ĐBSCL và nhiều tỉnh ven biển. Vùng ĐBSCL nuôi nghêu đã phát triển ở tỉnh Bến Tre, Tiền Giang và Trà Vinh với diện tích năm 2019 là 5.283ha; trong đó, Bến Tre 2.873ha, Tiền Giang 1.950ha, Trà Vinh 460ha. Tổng diện tích bãi biển có thể phát triển nuôi nghêu ở ba tỉnh lên đến 9.770ha. Ở tỉnh Bến Tre và Trà Vinh còn có 274ha nghêu bố mẹ và 550ha nghêu giống chất lượng cao để cung cấp tại chỗ cùng các địa phương khác.

Toàn bộ vùng nghêu của tỉnh Bến Tre từ năm 2009 đã được Chứng nhận MSC (Marine Stewardship Council) của Hội đồng Quản lý Biển, cũng là ngành ngư nghiệp đầu tiên của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á đạt chứng nhận này.

Đây là nhãn hiệu cho nghề khai thác được quản lý tốt, giữ đa dạng sinh thái, không gây cạn kiệt. Nhờ thế, sản phẩm xuất khẩu được nhiều thị trường ưa chuộng. Ở tỉnh Bến Tre đã thành lập 9 hợp tác xã để quản lý bãi nghêu; Tiền Ging và Trà Vinh cũng thành lập hợp tác xã và đang phấn đấu đạt Chứng nhận MSC.

Ở phía Bắc, tỉnh Nam Định là điển hình khai thác nghêu tại các vùng đất ngập nước ven biển. Số liệu của Sở NN-PTNT, những năm đầu 1980 người dân bắt đầu quan tâm khoanh vùng khai thác nghêu bán ra ngoài tỉnh và xuất khẩu, đến nay có diện tích khoảng 1.700ha, sản lượng hàng năm từ 17.000 đến 25.000 tấn.

Ngày 22/8/2019 ở tỉnh Nam Định diễn ra lễ ký kết “Thỏa thuận hợp tác xây dựng chuỗi ngao tỉnh Nam Định” hướng đến Chứng nhận quốc tế ASC. Đại diện các hộ nuôi nghêu ở huyện Giao Xuân, Giao Thủy, Nam Điền, Nghĩa Hưng ký kết với ông Simond Lenger - Chủ tịch Tập đoàn Lenger Seafood Hà Lan. Đây là bước khởi đầu cho sự liên kết giữa những người nuôi và doanh nghiệp chế biến, tạo chuỗi sản phẩm bền vững.

12-34-48_thu_hoch_ngheu_o_tien_ging_-_nh_le_hong_vu

Nuôi nghêu còn chủ yếu khai thác tự nhiên

Tập đoàn Lenger Seafoods Hà Lan có kinh nghiệm nuôi trồng, đánh bắt và chế biến các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ hơn 90 năm, đã đầu tư Nhà máy chế biến nghêu ở TP Nam Định. Lenger Việt Nam chính thức trở thành đơn vị đầu tiên trên thế giới thực hiện áp dụng Chứng nhận ASC cho sản phẩm nghêu, dự kiến sẽ đạt được Chứng nhận ASC vào năm 2020.  

Nghêu chết hàng loạt

Ở tỉnh Bến Tre, sau 10 năm được cấp chứng nhận MSC, nguồn lợi nghêu tại một số vùng có dấu hiệu suy giảm. Thậm chí một số hợp tác xã gần như không còn nghêu giống tự nhiên (Bảo Thuận, Bình Minh, Thạnh Lợi) và đây sẽ là một khó khăn khi tái đánh giá MSC tại Bến Tre.

Một nghiên cứu của TS Cao Lệ Quyên cùng 8 thạc sỹ về chuỗi giá trị nghêu ở 3 tỉnh Bến Tre, Tiền Giang và Trà Vinh trong dự án do Liên minh châu Âu và Tổ chức Oxfam Việt Nam tài trợ, vừa công bố cho biết: “Giai đoạn 2010 - 2019, hầu hết bãi nghêu tại 3 tỉnh thể hiện xu hướng thu hẹp về diện tích và thay đổi vị trí phân bố theo hướng ra xa bờ hơn; tỷ lệ giảm diện tích trung bình tại 3 tỉnh là 21,7%; mật độ và sinh lượng cũng giảm”. Nguyên nhân chính là do quá trình xói lở và bồi tụ diễn ra liên tục, xen kẽ tại các vùng ven biển, trong lúc nghêu phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên và môi trường như chế độ gió, dòng chảy, thời tiết, bồi lắng, độ mặn.

Nghiên cứu của ông Nguyễn Đức Minh ở Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II cho biết thêm: “Cùng với sự phát triển nhanh và mạnh của nghề nuôi nghêu, hiện tượng nghêu chết hàng loạt cũng đã xuất hiện và có xu hướng gia tăng gây nhiều thiệt hại về kinh tế và môi trường nghiêm trọng”.

Điển hình trong năm 2019, từ đầu năm đến tháng 6/2019, hơn 300ha nghêu ở tỉnh Trà Vinh bị chết hàng loạt 3 đợt sau khi thả 95 tấn con giống, nghêu chết lúc mới thả giống, sau hơn 3 tháng và khi sắp thu hoạch. Kết quả thiệt hại trên 300 tấn trong năm nay và theo chu kỳ thu hoạch kéo dài sang năm 2020 thì mất khoảng 700 tấn nữa.

Còn những năm trước, thống kê của ông Minh, giữa tháng 5/2003, gần 5.000 tấn nghêu nuôi trên 80ha ở huyện Tiền Hải (Thái Bình) bị chết đồng loạt, thiệt hại hàng chục tỷ đồng.

Tháng 5/2005, nghêu trên 400ha mới thả giống ở huyện Gò Công Đông (Tiền Giang) bị chết sạch; còn tỉnh Bến Tre, nghêu chết 40 - 80% ở 1.650ha tại huyện Ba Tri; trên 70% ở 900ha tại huyện Bình Đại.

Tháng 3/2007, nghêu ở huyện Bình Đại (Bến Tre) lại chết trên 2.500 tấn, thiệt hại hàng chục tỷ đồng. Từ cuối năm 2007 đến tháng 3/2008, tại huyện Cần Giờ (TP Hồ Chí Minh), nghêu chết 80 - 90% trên diện tích 800ha, thiệt hại khoảng 190 tỷ đồng và hiện tượng này lặp lại vào năm 2008 - 2009 gây thiệt hại gần 200 tỷ đồng.

Năm 2008, khoảng 90% diện tích nghêu tại xã Hoằng Phụ (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) cũng chết hàng loạt. Năm 2010 - 2011, dịch bệnh trở lại huyện Cần Giờ (TP Hồ Chí Minh) làm gần 759ha nghêu bị chết, mất khoảng 2.595 tấn, thiệt hại 80 tỷ đồng. Từ năm 2010 đến năm 2012, diện tích nghêu nuôi bị chết tại Tiền Giang là 1.195,8ha, thiệt hại 220 tỷ đồng.

Tình trạng nghêu chết hàng loạt liên tục xảy ra khiến nghề nuôi nghêu đầy rủi ro, cuộc sống người nuôi nghêu bấp bênh. Nghiên cứu của TS Cao Lệ Quyên cùng 8 thạc sỹ cho biết ở tỉnh Bến Tre: “Độ tuổi lao động tham gia nghề nghêu là cao, chủ yếu trên 30 tuổi, trên 90% độ tuổi từ 45 - 60, còn thanh niên không thích. Thu nhập từ nghêu đảm bảo 27% thu nhập hộ, nhưng đang ngày càng khó khăn, nguy cơ bị suy giảm do ảnh hưởng của việc suy giảm nguồn lợi và các bất lợi về thời tiết cũng như môi trường”.  

Giải pháp phát triển

Các nghiên cứu chuyên sâu xác định, vi khuẩn giống Vibrio gây chết nghêu ở giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng; vi khuẩn nội bào Ricketsia gây chết nghêu nuôi thương phẩm. Các yếu tố độ mặn, nhiệt độ, thời gian phơi bãi có liên quan nghêu chết hàng loạt.

10-54-50-181119212543331

Nuôi nghêu đang chủ yếu khai thác thiên nhiên, quản lý các bãi nghêu có sẵn và thả thêm nghêu giống. Tại tỉnh Bến Tre, phần lớn các hợp tác xã không phải bỏ vốn nên tỷ suất lợi nhuận khá cao, dao động từ 1/1,39 - 1/2,4, tức là thành viên hợp tác xã góp vốn 1 đồng sẽ được chia lợi nhuận 1,39 - 2,4 đồng. Xét hiệu suất đầu tư là tương đối cao, tuy nhiên, phụ thuộc thiên nhiên có nhiều rủi ro nên thu nhập của các hộ từ nghề nuôi nghêu lại không cao. Ở tỉnh Tiền Giang chỉ có 82% số hộ muốn tiếp tục đầu tư nuôi nghêu.

Những ảnh hưởng do biến đổi khí hậu, cụ thể là sự thay đổi địa hình tại các bãi nuôi và dịch bệnh trên nghêu là các rủi ro lớn nhất đối với nghề nghêu hiện nay. Công tác nghiên cứu bệnh và môi trường nuôi còn chưa theo kịp với đòi hỏi thực tế sản xuất. Cảnh báo môi trường dịch bệnh đã có, song chưa kịp thời, dẫn đến vẫn còn hiện tượng nghêu chết hàng loạt ở nhiều nơi.

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II đề xuất, cần đầu tư cho nghề nuôi nghêu căn cơ hơn. Trước tiên, xây dựng hệ thống giám sát, cảnh báo môi trường và dịch bệnh. Đồng thời, nghiên cứu hoàn thiện qui trình nuôi ở các vùng đặc trưng của ĐBSCL và các địa phương khác. Nuôi nghêu hiện nay thả giống chủ yếu nghêu sọ (500 - 3.000 con/kg), không ương nghêu cám nên chi phí cao và không chủ động mùa vụ. Cần ương giống nghêu trước khi thả nuôi vùng bãi triều và tổ chức đào tạo, tập huấn, trợ giúp kỹ thuật nông dân trong quá trình áp dụng.

“Các sản phẩm nghêu để có giá trị xuất khẩu cần phải đạt các chứng nhận về an toàn vệ sinh thực phẩm và là sản phẩm có giá trị tăng cao. Do đó, cần xây dựng các vùng nuôi nghêu có năng suất cao, đạt chất lượng và được chứng nhận MSC”, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II kết luận.

(Theo NNVN)

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin cùng chuyên mục