Chiến lược phát triển thủy sản: Yếu công nghệ, lo đầu ra cho tôm cá

“Tiềm năng nuôi biển của chúng ta rất lớn với chiều dài bờ biển 3.260km, rộng 1 triệu km2. Theo khảo sát sơ bộ, chúng ta có khoảng 500.000km2 có thể phát triển nuôi biển. Tuy nhiên, hiện nay nuôi biển mới chỉ ở giai đoạn phôi thai, nuôi gần bờ là chính”.

Đó là đánh giá của Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến tại Hội nghị sơ kết chương trình mục tiêu phát triển kinh tế thủy sản bền vững giai đoạn 2016 - 2020 và lấy ý kiến xây dựng chiến lược phát triển thủy sản năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, vừa tổ chức tại Khánh Hoà.

Giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 8,6 tỷ USD

Theo Tổng cục Thủy sản, mặc dù nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực thủy sản giai đoạn 2016 - 2020 còn nhiều hạn chế, nhưng kết quả thực hiện đầu tư cơ bản đã đạt được các mục tiêu của chương trình đề ra. 

Cụ thể, năm 2019, tổng sản lượng thủy sản đạt 8,15 triệu tấn (trong đó, sản lượng khai thác đạt 3,77 triệu tấn, nuôi trồng đạt 4,38 triệu tấn); giá trị xuất khẩu thủy sản cả năm đạt 8,6 tỷ USD; công suất cảng cá tăng thêm khoảng 352.000 tấn hàng qua cảng/năm và công suất neo đậu tăng thêm khoảng 24.900 tàu. 

"Trước khi trình Chính phủ, Bộ NNPTNT sẽ tiếp thu các ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương và các ý kiến góp ý tại hội nghị này để hoàn thiện dự thảo chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đảm bảo tính thời sự, gắn với thực tế, đưa ngành thủy sản phát triển bền vững...".

Thứ trưởng Bộ NNPTNTPhùng Đức Tiến

Các cơ sở đã chủ động sản xuất giống sạch bệnh trong nước đối với các đối tượng thủy sản chủ lực, giống tôm sú, tôm chân trắng, cá tra. Các vùng nuôi tập trung thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực đạt chứng nhận VietGAP hoặc chứng nhận tương đương (GlobalGAP, ASC.BAP).

Bên cạnh những thuận lợi thì ngành thủy sản đang gặp khó khăn, vùng neo đậu, luồng lạch bồi lắng không đảm bảo yêu cầu neo đậu an toàn, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; thiếu hệ thống xử lý môi trường, hạ tầng không đồng bộ; công nghệ bốc dỡ, vận chuyển, bảo quản, chế biến sản phẩm khai thác tại các cảng lạc hậu, tổn thất sau thu hoạch.

Theo dự thảo xây dựng chiến lược phát triển ngành thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn đến đến năm 2045 do Viện Kinh tế và Quy hoạch thuỷ sản (Bộ NNPTNT) xây dựng, mục tiêu đến năm 2030, kinh tế thủy sản đóng góp 28 - 30% GDP trong cơ cấu ngành nông nghiệp. 

Tổng sản lượng thủy sản đạt 10 triệu tấn, trong đó sản lượng khai thác thủy sản khoảng 25 - 30%, sản lượng nuôi trồng thủy sản 70 - 75%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 18 - 20 tỷ USD, giải quyết việc làm cho 3,5 triệu lao động. 100% cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm...

Yếu công nghệ, đầu ra

Góp ý tại hội nghị, ông Võ Thiên Lăng - Chủ tịch Hội nghề cá Khánh Hòa cho rằng, Tổng cục Thủy sản nên phối hợp các doanh nghiệp để tổ chức hội nghị nhằm đảm bảo đầu ra và nâng cao chất lượng cho cá ngừ đại dương.

Theo ông Lăng, đã là cảng cá thì phải có trung tâm đấu giá, ở các nước trên thế giới đã có trung tâm đấu giá. Tuy nhiên, ở Việt Nam không thấy khoa nào đào tạo vấn đề đấu giá. Do đó đề nghị bổ sung, bố trí trường đào tạo cho phù hợp. 

Đại diện Trường ĐH Nha Trang cho biết, trong những năm vừa qua trường đã đào tạo các nguồn nhân lực trong lĩnh vực chế biến, khai thác, nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, thực trạng thu hút các sinh viên trong lĩnh vực này rất khó.

Xây dựng chiến lược phát triển thủy sản: Tăng đào tạo, tính chuyên nghiệp và liên kết  - Ảnh 4.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, nước ta có nhiều tiềm năng nuôi biển nhưng hiện nay mới chỉ ở giai đoạn phôi thai, nuôi gần bờ là chính.

Còn ông Quảng Trọng Thao - Phó Giám đốc Sở NNPTNT Kiên Giang thì cho rằng, trong chiến lược cần xây dựng mối liên kết giữa người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó doanh nghiệp phải là đầu tàu để dẫn dắt sản xuất với hàng hóa lớn. Hiện nay nhiều nơi mạnh ai nấy làm thì không hiệu quả.

Ông Kim Văn Tiêu - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho biết, tiếp tục đưa khoa học công nghệ vẫn là hàng đầu trong nuôi trồng. Vấn đề lo nhất hiện nay là đầu ra của sản phẩm, do đó giải pháp thị trường, tiếp thị, quảng bá, giới thiệu cần được coi trọng. Còn kỹ thuật nuôi tôm, cá về mặt khuyến ngư, ông Tiêu cho rằng không có vấn đề gì.

Ngoài ra, theo ông Tiêu, trong chiến lược cần bổ sung nuôi tôm kháng bệnh và thích ứng biển đổi khí hậu. "Hiện nay đã có doanh nghiệp giới thiệu giống của họ thích ứng với cái rét của miền Bắc. Do đó, chúng ta cần bổ sung vào đề án để tăng hiệu quả nuôi biển" - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia nói.

Phát biểu kết luận tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến cho biết, sau 10 năm thực hiện chiến lược, ngành thủy sản đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, luôn thuộc nhóm các nước đứng đầu thế giới về giá trị xuất khẩu, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. 

"Tiềm năng nuôi biển của chúng ta rất lớn với chiều dài bờ biển 3.260km, rộng 1 triệu km2. Và theo khảo sát sơ bộ, chúng ta có khoảng 500.000km2 có thể phát triển nuôi biển. Tuy nhiên, hiện nay nuôi biển mới chỉ ở giai đoạn phôi thai, nuôi gần bờ là chính, lồng bè cũng đơn giản, sơ sài. Việc nghiên cứu sản xuất con giống cũng còn hạn chế, chưa được nghiên cứu, sản xuất theo quy trình, công nghệ cao" - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đánh giá. 

(Theo Dân Việt)

 

 

Bình luận bài viết

Tin cùng chuyên mục