Thị trường Hàn Quốc vẫn còn “mơ hồ” về cá tra Việt Nam

(vasep.com.vn) Năm 2018, giá trị XK cá tra, basa sang thị trường Hàn Quốc đạt 5,75 triệu USD, tăng 28% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, 4 tháng đầu năm nay, giá trị XK sản phẩm này sang Hàn Quốc lại giảm hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Cho tới nay, Hàn Quốc vẫn còn là thị trường khá “xa lạ” với cá tra Việt Nam.

Trong hơn 8 năm qua, giá trị XK cá tra sang thị trường Hàn Quốc vẫn dừng ở mức tăng trưởng trung bình. Hiện nay, Hàn Quốc là thị trường XK cá tra, basa đứng thứ 51 trên tổng gần 120 thị trường.

Tháng 5/2015, Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức ký VKFTA. Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 20/12/2015. Với những nội dung đã được thỏa thuận, nhiều chuyên gia cho rằng Hiệp định này sẽ mang đến những tác động tích cực cho các DN XK thủy sản Việt Nam, nhất là XK tôm và mực, bạch tuộc. Nhưng trên thực tế, XK các sản phẩm thủy sản của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc chưa nắm bắt và tận dụng được những ưu đãi về thuế quan từ FTA này. 

Với sản phẩm cá tra, basa vốn vẫn chưa được nhiều người tiêu dùng và nhà NK biết đến thì hầu như chưa có lực đẩy nào của FTA này giúp cho hoạt động XK cá tra, basa sang thị trường này tăng trưởng hơn. Cho tới nay, thị hiếu của khách hàng Hàn Quốc vẫn trung thành với nhóm sản phẩm hải sản và tôm.

Người Hàn Quốc tiêu thụ nhiều sản phẩm: cá cơm, tôm, mực, cá ngừ, Alaska Pollack, cá thu, corvina vàng, cá thu đao, cá đuôi tóc, cá bẹt, cá tu sĩ, cá chình, cá đá và cá tuyết cod... Sự thành công từ những nỗ lực của ngành công nghiệp Hàn Quốc để thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về thủy sản (có lợi cho sức khỏe hơn các loại thịt đỏ) để đa dạng hóa các sản phẩm thủy sản, và để nâng cao chất lượng và phát triển công nghệ chế biến sẽ là chìa khóa trong việc mở rộng nhu cầu trong nước trong thời gian tới. Đó là lý do tại sao, trong thời gian gần đây, tỷ lệ NK sản phẩm cá thịt trắng bắt đầu gia tăng trong cơ cấu NK thủy sản của nước này.

Hiện nay, tỷ lệ NK sản phẩm cá tra, basa của Hàn Quốc cũng chỉ chiếm từ 0,1 – 0,45% tổng giá trị NK của nước này. Trong khi đó, giá trị NK sản phẩm cá Alaska pollack chiếm từ 59 – 62% tổng giá trị NK cá thịt trắng. Nga và Mỹ là hai nguồn cung sản phẩm cá thịt trắng lớn nhất cho thị trường Hàn Quốc, chiếm tỷ lệ lần lượt 75% và 20% tổng giá trị NK. Việt Nam là nguồn cung lớn thứ 3 với thế mạnh là sản phẩm cá tra, basa phile đông lạnh. Cá Alaska pollack và cá Cod là hai sản phẩm cá thịt trắng rất phổ biến và được ưa chuộng tại thị trường Hàn Quốc. Đây là những sản phẩm thu hút thị hiếu tiêu dùng của quốc gia này.

Như đã phân tích ở trên, nhận thức của người tiêu dùng Hàn Quốc đang dần thay đổi, khách hàng cũng bắt đầu tìm kiếm các sản phẩm thủy sản thay thế sản phẩm cá thịt đỏ mang nhiều lợi ích về mặt sức khỏe. Do đó, dự báo trong tương lai sẽ có chỗ cho các sản phẩm cá thịt trắng, trong đó có cá tra, basa Việt Nam. Hiện nay, mức thuế NK trung bình của Hàn Quốc đang áp dụng với sản phẩm cá tra, basa phile tươi, ướp lạnh (HS 030432) là 11,9% và sản phẩm cá tra, basa phile đông lạnh ở mức 7,9%. Hiện nay, giá NK sản phẩm cá tra, basa trung bình của Hàn Quốc dao động từ 4,4 - 4,95 USD/kg (theo tính toán của ITC). Có thể trong tương lai, XK cá tra sang thị trường này sẽ còn gia tăng, tuy nhiên ở hiện tại Hàn Quốc vẫn còn nhiều “mơ hồ” với sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam.

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin cùng chuyên mục