Tại công văn 249/2013/CV-VASEP, Hiệp hội có ý kiến góp ý như sau:
1. Xét tình hình nhập khẩu (NK), xuất khẩu (XK) giữa Việt Nam và Liên minh hải quan:
- Theo số liệu từ hải quan Việt Nam thì: từ năm 2010 đến nay, Việt Nam chủ yếu NK thủy sản từ Nga, không nhập khẩu thủy sản từ Belarut và Cadắcxtan (riêng năm 2011 có NK cá tươi/đông lạnh thuộc mã 0302 và 0303 từ Cadắcxtan với sản lượng không nhiều, với giá trị 8.280 USD). Trong khi đó, Việt Nam lại XK thủy sản sang 3 nước này với giá trị gấp nhiều lần so với lượng NK vào. Hiện nay, Việt Nam đang XK nhiều các mặt hàng vào LMHQ như: chả cá và surimi, cá tra (mã 0303,0304), cá ngừ chế biến (mã 16), bạch tuộc (mã 03), các mặt hàng cá khô (mã 0305), tôm sú và tôm thẻ chân trắng (mã 0303, 16), 1 số nhuyễn thể thuộc mã 0307...với tổng giá trị XK vào 3 nước khoảng 110 triệu USD (năm 2012), và có xu hướng gia tăng trong các năm tiếp theo.
- Sản phẩm thủy sản NK từ LMHQ chủ yếu là nguyên liệu cá tươi/đông lạnh thuộc mã 0302 do nhu cầu nguyên liệu cho chế biến XK của các DN ngày càng tăng, mà sản lượng trong nước ngày càng thiếu và nhiều loại cá biển Việt Nam không có (như cá tuyết ..).
- Thực tế, nguyên liệu thủy sản của các nước LMHQ không nhiều, và lượng DN Việt Nam nhập lại chủ yếu cho chế biến hàng XK, nên việc mở cửa, giảm thuế suất NK xuống bằng 0 sẽ không có ảnh hưởng lớn tới việc phát triển nuôi trồng trong nước.
2. Đề nghị:
- Xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với các dòng nguyên liệu thuộc nhóm: 0302, 0303, 0304, 0306, 0307 (điều chỉnh trong bản chào thuế từ B xuống A).
- Trong đàm phán ký kết, đề nghị phía Việt Nam chú trọng tới việc yêu cầu phía đối tác phải tuân thủ những quy định của WTO (Nga đã tham gia WTO) trong việc công khai, minh bạch các quy định, nhất là trong các nội dung TBT và SPS đối với hàng nông lâm thủy sản... để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà XK, NK tìm hiểu và giao thương theo đúng các quy định.
Vân Anh