Theo đó, đến năm 2020, diện tích mặt nước nuôi cá nước lạnh đạt 700 ha và 900.000m3 nuôi trong bể ở 4 vùng Đông Bắc bộ, Tây Bắc bộ, Duyên hải miền Trung và vùng Tây Nguyên; trong đó 40 - 50% diện tích nuôi theo hướng thâm canh.
Sản lượng cá nước lạnh nuôi đáp ứng được 70 - 80% nhu cầu tiêu dùng trong nước với giá cạnh tranh (sẽ điều chỉnh sản xuất phù hợp theo nhu cầu của thị trường).
Sản phẩm trứng cá nước lạnh đạt từ 3 - 5 tấn/năm, giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt khoảng 10 triệu USD. Sản xuất được 50 - 60% nhu cầu con giống đảm bảo chất lượng phục vụ nuôi thương phẩm.
Đến năm 2030, sản lượng cá nước lạnh nuôi đáp ứng được 100% nhu cầu tiêu dùng trong nước và một số sản phẩm cá nước lạnh được xuất khẩu.
Sản phẩm trứng cá nước lạnh đạt từ 15 - 20 tấn/năm, giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt khoảng 40 - 45 triệu USD. Sản xuất được 100% nhu cầu giống đảm bảo chất lượng phục vụ nuôi thương phẩm. 100% nhu cầu thức ăn công nghiệp phục vụ nuôi cá nước lạnh được sản xuất trong nước.
Đối tượng cá nước lạnh bao gồm: Cá tầm và cá hồi, trong đó có cá tầm Siberi, cá tầm Nga, cá tầm sao, cá tầm Trung Hoa và một số loài cá tầm lai khác. Cá hồi có cá hồi vân, cá hồi trắng và một số loài cá hồi khác.
Quy hoạch phát triển cá nước lạnh cũng nêu một số giải pháp chủ yếu về tổ chức và quản lý sản xuất, thị trường và xúc tiến thương mại, khoa học công nghệ, khuyến ngư và môi trường, đầu tư và tín dụng, hợp tác quốc tế.