Theo quyết định này, định hướng phát triển nuôi cá biển bao gồm nuôi trên lồng bè đơn giản, đầu tư thấp phân tán trong các eo vịnh cửa sông ven biển, nuôi trên lồng bè tập trung quy mô công nghiệp ở các vùng vịnh bán kính xa bờ ở một số tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh, Phú Yên, Khánh Hòa, Vũng Tàu, Kiên Giang, và nuôi trong ao đất nước mặn, nước lợ.
Phát triển nuôi đa loài, ưu tiên một số loài có giá trị cao,sản lượng lớn, có thể chế biến XK như cá giò, cá tráp, cá hồng Mỹ, cá hồng bạc... kết hợp nuôi cá biển với phát triển nuôi tổng hợp đa đối tượng trên cùng một khu vực như nhuyễn thể (vẹm xanh, ốc hương, hàu biển...), rong biển (rong câu,rong sụn...) để phát huy hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích và bền vững với môi trường, giảm nguy cơ dịch bệnh. Diện tích đặt lồng bè nuôi cá biển không vượt quá 10% diện tích có thể nuôi. Các khu vực nuôi bao gồm các cụm lồng bè riêng biệt, diện tích mỗi cụm không quá 1ha lồng bè, các cụm cách nhau từ 500-1.000m. Các đối tượng khác được nuôi xen kẽ với tỷ lệ xác định theo mô hình nuôi tổng hợp.
Mục tiêu cụ thể: nuôi cá biển trong ao nước mặn, nước lợ, ao nuôi tôm chuyển đổi hoặc luân canh đến năm 2015 đạt 61 nghìn tấn, đến năm 2020 đạt 98 nghìn tấn; nuôi cá biển trong hệ thống lồng nhỏ đạt 44 nghìn tấn năm 2015 và 51 nghìn tấn năm 2020; nuôi công nghiệp tập trung đạt 55 nghìn tấn năm 2015 và111 nghìn tấn năm 2020. Tổng sản lượng cá biển nuôi năm 2015 đạt 160 nghìn tấn, giá trị tương đương 1,04 tỷ USD và năm 2020 đạt 200-260 nghìn tấn, tương đương 1,8 tỷ USD.
Nội dung chi tiết xin xem file đính kèm.
Quyết định 1523