Cuộc chiến giá cả surimi

(vasep.com.vn) Nhu cầu về surimi ở châu Âu và Hoa Kỳ đang có dấu hiệu cải thiện, tuy nhiên, Nga đang tăng cường sự hiện diện và cạnh tranh quyết liệt trên thị trường châu Á. Công ty Thủy sản Nga (RFC), đơn vị nắm giữ hạn ngạch cá minh thái và chế biến surimi lớn nhất của nước này đã công khai tuyên bố rằng họ sẽ nỗ lực chiếm hữu thị trường surimi châu Á và sẵn sàng cạnh tranh về giá cả.

Chú thích ảnh

Theo số liệu xuất khẩu surimi mới nhất của Hoa Kỳ tính đến tháng 5/2024, giá xuất khẩu đã có xu hướng giảm. Cụ thể, giá xuất khẩu trung bình trong tháng 5 chỉ còn 2.278 USD/tấn, giảm 24% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với thị trường Nhật Bản, nơi Nga đang cạnh tranh mạnh mẽ với Hoa Kỳ ngay cả với khối lượng nhỏ, giá xuất khẩu trung bình tháng 5 là 2.159 USD/tấn, giảm 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặc dù vậy, số liệu cho thấy giá trung bình tháng 5 của Hoa Kỳ lại tăng lên trên thị trường Pháp, nhưng chỉ với khối lượng rất nhỏ.

Đài quan sát Thị trường châu Âu đối với khai thác và nuôi trồng thủy sản (EUMOFA) cũng chỉ ra rằng lượng nhập khẩu surimi (theo mã hải quan 03049410) từ Hoa Kỳ vào châu Âu trong nửa đầu năm 2024 đã giảm về khối lượng và giá trị.

Theo dữ liệu từ EUMOFA, mức giá trung bình gần đây nhất của EU trong tuần 27 là 2.200 EUR/tấn, tương đương 2.400 USD/tấn. Giá nhập khẩu surimi cá minh thái và surimi nhiệt đới của Nhật Bản đều đã giảm cho đến tháng 3/2024.

Mặc dù Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí thống lĩnh trên thị trường surimi của Nhật Bản, giá nhập khẩu trung bình chỉ ở dưới 2.000 USD/tấn trong quý 1, thấp hơn cả Nga (2.287 USD/tấn) và các quốc gia cung cấp surimi nước ấm, với Thái Lan dẫn đầu.

Giá cá phi lê chạm đáy 

Giá surimi có dấu hiệu ổn định nhưng theo ông Gustafsson, triển vọng của thị trường phi lê cá rút xương (PBO) lại tương đối khả quan, ngay cả khi sản lượng của Hoa Kỳ đang tăng.

Mặc dù Gustafsson ủng hộ Ủy ban châu Âu (EC) có nhiều hành động hơn đối với Nga, nhưng các biện pháp của EC đã ngăn không cho các tàu mới và được lắp ráp lại từ RFC và Gidrostroy xuất khẩu surimi sang châu Âu. Các biện pháp này cũng đã chặn các tàu và nhà máy mới và được lắp ráp lại từ hai công ty này bán phi lê sang thị trường chính là EU.

Tuy nhiên, sản lượng PBO mùa B ở Biển Bering vẫn tăng mạnh, đạt 21.509 tấn tính đến ngày 13/07, tăng 49% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung cả năm, sản lượng đạt 71.614 tấn, tăng 34%.

Về giá cả, toàn bộ lượng tồn kho phi lê của năm 2022 và 2023 đã được tiêu thụ hết. Tuy nhiên, theo ông Gustafsson, các nhà sản xuất vẫn bị ảnh hưởng bởi việc Nga bán phá giá sang châu Âu.

Hiện giá phi lê cá PBO của Mỹ đạt khoảng 3.500-3.600 USD/tấn, tăng 150-200 USD/tấn so với mùa trước. Trong khi đó, Nga đang tìm cách bán PBO đông lạnh mới với giá 2.800 USD/tấn, chưa kể thuế. Khi tính cả 13,7% thuế, giá này sẽ vượt quá 3.000 USD/tấn vì nằm ngoài chương trình hạn ngạch thuế quan tự chủ (ATQ) của Ủy ban châu Âu.

Kể từ ngày 01/01/2024, mức thuế nhập khẩu đối với cá minh thái Nga và phi lê cá Trung Quốc sử dụng cá bỏ đầu và ruột (H&G) của Nga sẽ tăng lên 13,7%, thay vì 0% như trước đây.

Dữ liệu nhập khẩu trung bình từ EUMOFA cho thấy sự chênh lệch giá giữa phi lê cá Trung Quốc, Nga và Hoa Kỳ đã tăng lên, với việc phi lê cá Trung Quốc sẽ chịu mức thuế 13,7%. Do đó, mức giá rất thấp có thể bao gồm hàng tồn kho cũ với chiết khấu và không phản ánh chính xác giá thay thế hiện tại.

Theo một nguồn tin, toàn bộ số lượng cá tồn kho từ năm 2022 và 2023 đã được bán hết. Tuy nhiên, thị trường vẫn chịu ảnh hưởng từ việc Nga bán phá giá tại châu Âu, khiến các nhà cung cấp khác phải điều chỉnh giá cả để cạnh tranh.

Nhu cầu về cá minh thái Mỹ tại châu Âu đang tăng mạnh, cùng với sự giảm giá chung của các loại phi lê cá từ các nguồn khác nhau, như thể hiện trong dữ liệu nhập khẩu mới nhất của Đức, thị trường chính tại EU.

Tính đến năm 2024, Hoa Kỳ vẫn đang giữ vị thế nhập khẩu hàng đầu. Các công ty Đức đã nhập khẩu một lượng kỷ lục phi lê đông lạnh kép từ Trung Quốc (chủ yếu sử dụng H&G từ Nga) và phi lê đông lạnh một lần từ Nga vào tháng 12 nhằm tránh mức thuế 13,7% sau khi có sự thay đổi về ATQ.

Lượng nhập khẩu của Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế trong bốn tháng đầu năm 2024. Dữ liệu nhập khẩu của Đức, thị trường cá minh thái chính ở EU, cho thấy tổng lượng nhập khẩu đến tháng 4 là 15.312 tấn, nhiều hơn cả lượng nhập khẩu của Trung Quốc và Nga cộng lại.

Theo dữ liệu từ Trung tâm Thương mại Thế giới, Đức nhập khẩu cá minh thái từ Hoa Kỳ ít hơn từ Trung Quốc kể từ năm 2012.

Gustafsson của ASG hy vọng các nhà bán lẻ ở Đức và Châu Âu sẽ chịu ảnh hưởng từ quyết định của Tesco (Anh) về việc dần loại bỏ cá Nga khỏi chuỗi cung ứng đông lạnh của họ vào cuối năm nay.

Tesco đang dần từ bỏ việc sử dụng cá Nga. Các nhà bán lẻ Anh, những người rất coi trọng nguồn gốc, tính bền vững và công bằng xã hội, có thể sẽ tiếp tục theo xu hướng này. Châu Âu có những lựa chọn thay thế cho nguồn cung cá từ Nga.

Về thị trường Hoa Kỳ, giá cá phi lê tại châu Âu đã tăng lên khoảng 200 USD/tấn do lỗ hổng cho phép chế biến cá phi lê tại châu Á bằng H&G từ Nga đã bị đóng lại, có hiệu lực từ 01/06/2024. Ông nhận định rằng tuy vẫn còn một số nguồn cung, nhưng mọi người đã chuẩn bị sẵn sàng. Ngoài ra, nguồn cung cá tuyết Đại Tây Dương giảm có thể giúp cá minh thái phi lê cao cấp được các nhà hàng ăn nhanh như McDonald's sử dụng, có cơ hội tăng trưởng.

Lệnh cấm không chỉ ngăn cản việc Nga gửi cá tuyết sang Trung Quốc để chế biến và xuất khẩu sang Mỹ dưới dạng phi lê, mà còn khiến các nhà khoa học khuyến nghị cắt giảm 31% hạn ngạch đánh bắt cá tuyết ở Biển Barents xuống còn 311.587 tấn vào năm 2025.

Việc cắt giảm hạn ngạch này diễn ra sau khi đã giảm 20% trong 2 năm trước đó. Kết quả là, giá cá tuyết H&G của Na Uy tăng vọt lên gần 7.000 USD/tấn tại Trung Quốc, giá thành và cước phí vận chuyển tại Trung Quốc, với mức hiện tại là khoảng 6.500 USD/tấn.

Do giá cá tuyết tăng cao, các nhà sản xuất có thể sẽ phải tìm cách thay thế bằng cá minh thái Alaska nhiều hơn. Chuỗi nhà hàng Long John Silver's đã từng chuyển sang sử dụng nhiều cá minh thái Alaska thay vì cá tuyết kể từ những năm 1990.

Trước năm 1990, LJS, một chuỗi nhà hàng hải sản phục vụ nhanh lớn của Hoa Kỳ, chủ yếu lấy nguồn cá tuyết. Từ năm 1990 đến năm 1992, LJS chuyển sang kết hợp cá tuyết, cá hoki và cá minh thái Alaska. Sau năm 1992, Gustafsson cho biết chuỗi nhà hàng đã chuyển "gần như hoàn toàn" sang cá minh thái Alaska.

Với nhiều sự thay đổi như vậy, thị trường cá lọc da kỹ có thể sẽ được hưởng lợi và có thể trở thành lựa chọn thay thế trực tiếp cho cá tuyết. Tuy nhiên, hiện vẫn còn tồn kho lớn từ năm trước.

Công ty ASG đã quyết định hạn chế hoạt động tàu cá Katie Ann, vốn trước đây chuyên về đánh bắt cá bơn vây vàng, với lý do liên quan đến vấn đề giá cả.

Đại diện của ASG cho biết "Quyết định về Katie Ann không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của chúng tôi, mà là một quyết định độc lập nhằm tập trung vào lĩnh vực thủy sản cốt lõi của công ty. Vì thị trường này đã suy thoái trong một thời gian dài, nên chúng tôi không muốn tiếp tục duy trì hoạt động này."

Kêu gọi thêm rào cản thương mại

Ngoài vấn đề chứng nhận MSC của Nga và việc ủng hộ Sullivan cùng các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ khác kêu gọi G7 đưa ra các biện pháp trừng phạt mạnh mẽ hơn với Nga do chiến tranh với Ukranie, Gustafsson còn mang theo một danh sách dài các vấn đề khác cần được thảo luận trong cuộc họp gần đây của ông tại Washington.

Ông nói rằng các đối tác của Mỹ trong G7 cần phải làm nhiều hơn nữa để đảm bảo công bằng trong thị trường và ngừng ủng hộ các hành động xâm lược của Nga. Ông chỉ ra rằng hầu hết cá minh thái Trung Quốc nhập khẩu vào EU đều là cá do Nga đánh bắt, đây là một lỗ hổng mà Mỹ đã tự đóng và các nước khác cũng có thể làm được.

Ngoài ra, ông cũng chỉ trích việc Nga dán nhãn "cá minh thái Alaska" cho hải sản của mình ở châu Âu, cho rằng đây là hành vi gian lận cần được ngăn chặn, tương tự như việc Nga không được phép nhập khẩu "Bordeaux" có nguồn gốc từ Crimea vào Pháp.

Gustafsson kêu gọi các nước loại bỏ các sản phẩm thủy sản của Nga được dán nhãn sai, để đảm bảo người tiêu dùng được cung cấp thông tin chính xác về nguồn gốc bền vững của thủy sản. Ông nhận thấy rằng người tiêu dùng trên toàn thế giới, đặc biệt là ở châu Âu và Nhật Bản, vẫn tiếp tục mua thủy sản của Nga, có thể là do thiếu hiểu biết và thiếu sự đưa tin của phương tiện truyền thông.

Chia sẻ:


Bình luận bài viết

Tin cùng chuyên mục