“1. Tiền thuế, tiền phạt được coi là nộp thừa khi:
a) Người nộp thuế có số tiền thuế, tiền phạt đã nộp lớn hơn số tiền thuế, tiền phạt phải nộp đối với từng loại thuế.
b) Người nộp thuế có số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp theo quyết toán thuế.
c) Người nộp thuế có số tiền thuế được hoàn theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân, phí xăng dầu.
2. Người nộp thuế có quyền giải quyết số tiền thuế, tiền phạt nộp thừa theo các cách sau:
a) Bù trừ số tiền thuế, tiền phạt nộp thừa với số tiền thuế, tiền phạt còn nợ, kể cả bù trừ giữa các loại thuế với nhau.
b) Trừ vào số tiền thuế, tiền phạt phải nộp của lần nộp tiếp theo.
c) Hoàn trả khi người nộp thuế không còn nợ tiền thuế, tiền phạt.
Thủ trưởng cơ quan thuế ra Quyết định hoàn thuế theo mẫu số 01/QĐHT ban hành kèm theo Thông tư này, gửi người nộp thuế; căn cứ Quyết định hoàn thuế, lập Lệnh hoàn trả khoản thu ngân sách nhà nước mẫu số 01/LHT ban hành kèm theo Thông tư này gửi Kho bạc nhà nước đồng cấp để thực hiện hoàn trả cho người nộp thuế”.
- Tại Khoản 1, Điều 53 Thông tư số 28/2011/TT-BTC nêu trên quy định hoàn trả tiền thuế khi người nộp thuế không còn nợ tiền thuế, tiền phạt như sau:
“1. Đối với hoàn trả thuế GTGT: Cục Thuế căn cứ Quyết định hoàn thuế, lập Lệnh hoàn trả khoản thu NSNN gửi Kho bạc nhà nước đồng cấp. Kho bạc nhà nước đồng cấp thực hiện hoàn trả cho người nộp thuế, sau đó báo nợ về KBNN cấp trên để trích từ quỹ hoàn thuế giá trị gia tăng”.