Trong đó, khoản 2 và 3 Điều 7 của thông tư 21/2018/TT-BNNPTNT được sửa đổi như sau:
- Khoản 2. Giám sát việc bốc dỡ thuỷ sản qua cảng
Khi nhận được đề nghị cập cảng của thuyền trưởng tàu cá, tổ chức quản lý cảng cá đối chiếu với danh sách tàu cá khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, trường hợp tàu cá nằm trong danh sách tàu cá khai thác thuỷ sản bất hợp pháp thì không cho bốc dỡ thuỷ sản và thông báo cho cơ quan chức năng xử lý theo quy định; trường hợp không nằm trong danh sách tàu cá khai thác thuỷ sản bất hợp pháp thì bố trí cho tàu cá cập cảng bốc dỡ thuỷ sản và cử cán bộ giám sát sản lượng, thành phần loài thuỷ sản bốc dỡ qua cảng.
Trường hợp phát hiện sản lượng thuỷ sản bốc dỡ thực tế sai lệch trên 20% so với sản lượng khai báo trước khi cập cảng thì lập biên bản, xử lý theo thẩm quyền hoặc bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định.
- Khoản 3. Biên nhận thuỷ sản bốc dỡ qua cảng
Theo đề nghị của tổ chức, cá nhân thu mua thuỷ sản, tổ chức quản lý cảng cá kiểm tra thông tin khai trên Giấy biên nhận thuỷ sản bốc dỡ qua cảng theo Mẫu số 02 Phụ luc II ban hành kèm theo Thông tư, xác nhận khi các thông tin đúng với thực tế cá tàu cập cảng; lưu bản sao chụp tại tổ chức quản lý cảng cá.
Tổ chức, cá nhận thu mua thuỷ sản từ mỗi tàu cá cập cảng được cấp 01 giấy biên nhận thuỷ sản bốc dỡ qua cảng theo đúng khối lượng, thành phần loài đã thu mua.
Ngoài ra, thông tư này còn rất nhiều điều khoản khác của thông tư 21/2018/TT-BTTPTNT được sửa đổi.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 25/12/2020.