(vasep.com.vn) Tại Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp lớn về giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước ngày 21/9/2024, ông Lê Văn Quang, Tổng Giám đốc Tập đoàn Thuỷ sản Minh Phú đã có bài phát biểu với nội dung liên quan đến những thách thức của ngành tôm Việt Nam và những kiến nghị, đề xuất nâng cao sức cạnh tranh của ngành tôm đến phát triển nông nghiệp bền vững và hiệu quả. Dưới đây là nội dung bài phát biểu của ông Lê Văn Quang tại Hội nghị.
Vị trí, đóng góp và lợi thế của ngành tôm Việt Nam
Tôm của Việt Nam là 1 trong 2 loài thủy sản nằm trong chiến lược phát triển nuôi của quốc gia, với tổng giá trị xuất khẩu 3,5 – 4 tỷ USD, chiếm 13 -14% tổng giá trị tôm toàn cầu.
Việt Nam là quốc gia được đánh giá có công nghệ chế biến tôm hiện đại nhất và có thế mạnh về sản xuất hàng GTGT, hàng cao cấp. Khoảng 2 triệu nông dân liên quan đến ngành tôm.
Một số thách thức lớn đối với ngành tôm Việt Nam và nông nghiệp
Năm 2023, sản lượng tôm Việt Nam giảm mạnh 32%, trong khi Ecuador tăng 14%, Ấn Độ tăng 2%, Thái Lan giảm 9%, Indonesia giảm 12%.
Giá bán tôm thương phẩm giảm sâu do suy thoái kinh tế và người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, trong khi giá thành tôm của Việt Nam lại rất cao và không cạnh tranh.
Nền sản xuất tôm còn bất cập khi:
+ Chi phí nhân công chế biến tôm cao do các khu công nghiệp thường nằm ở cánh đồng xa khu dân cư làm phải mất nhiều chi phí đưa đón công nhân và thời gian người công nhân từ nhà đến nơi làm việc kéo dài làm giảm năng suất lao động đồng thời chi phí cuộc sống của người công nhân tăng cao làm áp lực tăng lương luôn đè nén doanh nghiệp và hiện tại lương công nhân Việt Nam ở mức cao của khu vực.
+ Chi phí xử lý nước thải rất cao. Bởi vì doanh nghiệp phải xử lý nước đạt tiêu chuẩn loại B với chi phí 5.000₫/m3 rồi mới đưa về khu xử lý nước thải tập trung của khu công nghiệp xử lý nước thải đạt loại A mất 10.000 đến 15.000₫/m3. Nếu để doanh nghiệp xử lý nước thải đạt loại A thì chỉ mất không quá 5.500₫/m3.
+ Người nông dân nuôi tôm chưa chịu làm các chứng nhận BAP, ASC, tôm hữu cơ/sinh thái… nên khó bán tôm và bán được giá tôm không cao.
+ Tỷ lệ thành công của tôm nuôi tại Việt Nam (40%) quá thấp so với Ecuador (90%), Ấn Độ (60-70%).
+ Phương pháp nuôi tôm của Việt Nam sạch bệnh lớn nhanh và công nghệ cao với mật độ cao có thể đến 500 con/m2 nên tôm bị stress, gây ô nhiễm môi trường làm phát sinh dịch bệnh thường trực (Ecuador nuôi tôm theo phương pháp kháng bệnh, thích nghi và vừa sức tải môi trường với mật độ chỉ từ 15-30 con/m2 nên Ecuador rất thành công trong nhiều năm nay).
+ Vẫn còn nhiều cơ sở sản xuất tôm giống kém chất lượng trà trộn vào thị trường, người mua không phân biệt được nên tỷ lệ nuôi tôm thành công rất thấp.
+ Nuôi tôm của Việt Nam thường là các hộ nuôi tôm nhỏ lẻ nên không có kênh cấp, kênh thoát riêng nên dễ lây lan dịch bệnh tôm.
- Trong chuỗi giá trị tôm, DN Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh ở khâu chế biến, tuy nhiên ở khâu nuôi tôm và khâu phân phối khó có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác. Trong thời gian tới, các nước sẽ có thể bắt kịp và vượt Việt Nam cả về khâu chế biến vì các Chính phủ và doanh nghiệp của họ cũng đang rất nỗ lực đầu tư công nghệ chế biến.
Tóm lại, 05 thách thức chính của ngành tôm cũng như nông nghiệp là (1) chính sách quy hoạch và quản lý về giống; (2) phương pháp nuôi trồng; (3) hệ thống kênh cấp và thoát nước; (4) vật tư nông nghiệp sinh học; (5) các khu công nghiệp chế biến tôm và các khu công nghiệp nuôi tôm chuyên nghiệp, các trung tâm thương mại, logistics và phân phối sản phẩm nông nghiệp.
Kiến nghị, đề xuất nâng cao sức cạnh tranh của ngành tôm đến phát triển nông nghiệp bền vững và hiệu quả
Cần thay đổi tư duy: Thay vì chạy theo sản lượng, công nghệ cao (số lượng) cần phải chú trọng vấn đề bền vững và hiệu quả (chất lượng, môi trường, sức khoẻ và giá bán)
(1) Chính sách quy hoạch và quản lý về giống: Bộ NNPTNT nghiên cứu đề xuất sửa đổi về quy định đối với việc sản xuất tôm giống; cho phép các doanh nuôi tôm lớn gia hóa chọn giống theo hướng chọn lọc tự nhiên để có được tôm giống kháng bệnh, thích nghi với thời tiết, khí hậu và môi trường của từng vùng nuôi.
(2) Phương pháp nuôi trồng: Nuôi trồng cây, con theo Công nghệ sinh học vừa sức tải của môi trường, thân thiện với môi trường và giảm thải carbon. Minh Phú đang hướng dẫn và chuyển giao cho các hộ nuôi tôm công nghệ sinh học MPBiO tích hợp 9 công nghệ nuôi tôm hàng đầu thế giới giúp tỷ lệ thành công từ 90% trở lên với giá thành bằng và thấp hơn Ecuador mà lại có màu sắc đỏ đẹp hương vị thơm ngon bán được giá cao hơn 20%.
(3) Hệ thống kênh cấp và thoát nước: Nhà nước đầu tư xây dựng hệ thống kênh rạch, đê điều, hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt.
(4) Vật tư nông nghiệp sinh học: Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng và phát triển các phân bón, thức ăn sinh học, chế phẩm sinh học cho vật nuôi, cây trồng. Thực hiện ngành nông nghiệp theo hướng kinh tế tuần hoàn biến các chất thải, các phế liệu, các phế phẩm của ngành nông nghiệp thành các sản phẩm có giá trị và quay lại phục vụ ngành nông nghiệp phát triển bền vững.
(5) Nhà nước đầu tư cơ sở nền tảng số hóa, AI hóa cho ngành nông nghiệp.
(6) Đầu tư xây dựng các khu công nghiệp đô thị; các khu công nghiệp nuôi trồng chuyên nghiệp nhất là đầu tư các khu phức hợp bao gồm công nghiệp chế biến, gắn với công nghiệp nuôi trồng và khu dân cư đô thị tiện ích), các trung tâm thương mại, logistics và phân phối sản phẩm nông nghiệp. Đề nghị Nhà nước hỗ trợ khâu quy hoạch, Minh Phú sẵn sàng bỏ nguồn lực để đầu tư xây dựng, đang dự kiến một số khu công nghiệp tôm ở Kiên Giang, Cà Mau; 02 trung tâm xúc tiến nông sản ở Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh.
6 kiến nghị và đề xuất ở trên sẽ góp phần cùng Chính Phủ thực hiện thắng lợi Nghị quyết 36-NQ/TW về phát triển kinh tế biển.