Theo Báo cáo Xuất khẩu thủy sản Việt Nam quý II/2013, so với quý I, XK thủy sản sang EU trong quý II cũng đã tăng, nhưng không đáng kể 16% và so với cùng kỳ năm ngoái vẫn giảm gần 7% đạt 275 triệu USD. Tổng XK 6 tháng giảm 7,8% đạt 512 triệu USD.
XK tôm cải thiện
Quý II/2013, XK tôm sang EU tăng 1,3% cho thấy sự cải thiện dần trong XK tôm sang thị trường này. Quý I/2013, XK tôm sang EU vẫn còn giảm 5,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Năm 2012, suy thoái kinh tế tại nhiều nước Châu Âu khiến nhu cầu NK tôm vào khu vực này giảm mạnh. Ngoài ra, giá tôm XK sang EU năm 2012 cũng giảm nhiều so với năm 2011 do vậy, NK từ các nguồn cung chính đều giảm mạnh.
Giá trị XK tôm Việt Nam sang EU năm vừa qua giảm tới 24,5% so với năm 2011. Mức giảm qua các tháng từ 13% - 46%. Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm 2013, thống kê của Hải Quan Việt Nam cho thấy, XK tôm sang thị trường này chỉ giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, 3 tháng XK tôm sang EU tăng trưởng dương với mức tăng từ 3,2% - 33,8%.
Mặc dù nhu cầu tiêu thụ tôm tại EU vẫn chưa cải thiện nhưng do nguồn cung từ Thái Lan giảm mạnh đã giúp Việt Nam gia tăng XK tôm sang thị trường này.
Ecuador dẫn đầu về cung cấp tôm cho EU với thị phần chiếm 12,8%. Tuy nhiên, thống kê NK tôm vào EU 4 tháng đầu năm 2013 cho thấy NK tôm từ nước này giảm 3,6%. Trong khi NK từ Ấn Độ, nhà cung cấp tôm lớn thứ 2 cho EU tăng 9,1%.
Năm 2013, không có thông tin nào cho thấy Ecuador gia tăng sản lượng tôm chân trắng tuy nhiên một số công ty XK tôm của nước này cho biết muốn đẩy mạnh XK sang Trung Quốc do nhu cầu NK từ thị trường này tăng mạnh. Ngoài ra, Việt Nam cũng là điểm đến quan trọng của tôm Ecuador trong 4 tháng đầu năm 2013 khi XK tôm sang Việt Nam chiếm tới 16% tỷ trọng XK, chỉ sau Mỹ với 25% tỷ trọng.
Bangladesh, nước cung cấp tôm lớn thứ 4 cho EU hiện đang tận dụng lợi thế về ưu đãi thuế theo quy chế GSP. Tôm sản xuất tại Bangladesh XK sang EU được miễn thuế suất nhờ đó, NK tôm Bangladesh vào EU 4 tháng đầu năm 2013 tăng 11,3% so với cùng kỳ năm 2012. Tuy nhiên, sản lượng tôm của Bangladesh hạn chế do nước này chưa cải tiến phương thức nuôi và chỉ tập trung sản xuất tôm sú và tôm càng xanh. Năm 2013, nước này xem xét việc cho phép nuôi tôm chân trắng trên quy mô công nghiệp.
XK cá tra: Giá giảm do nguồn cung cá tuyết dồi dào
XK cá tra quý II/2013 đạt 95,9 triệu USD, giảm 12,8% so với cùng kỳ năm 2012. XK cá tra 6 tháng đầu năm đạt 191,3 triệu USD, giảm 14% so với cùng kỳ năm 2012.
Với nguồn cung cá tuyết dồi dào trên thị trường hiện nay, người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn để tiêu thụ. Thêm vào đó, nhiều loài cá đáy như cá minh thái Alaska, cá tuyết lục và cá bơn đang giảm giá hoặc phải chịu sức ép giảm giá cũng khiến thị trường thừa nguồn cung và không tăng trưởng. Giá cá tra đang ở mức thấp nhất so với mùa hè những năm trước. Giá cá tra trong quý II dao động khoảng 2,40 - 2,60 USD/kg, giảm 10-20% so với những năm trước. Tuy nhiên, lượng cá tra tiêu thụ tại một số thị trường khác như Bồ Đào Nha, Anh, Đông Âu có xu hướng tăng. Nhu cầu cá tra của Hà Lan vẫn lớn, ít nhất là trong mạng lưới bán lẻ. Cá tra được tiêu thụ nhiều hơn cá tuyết và thậm chí hơn cả cá rô phi.
Tây Ban Nha: XK cá tra sang Tây Ban Nha 6 tháng đầu năm đạt 39,8 triệu USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó XK cá tra sang Tây Ban Nha quý II/2013 đạt 18,3 triệu USD, giảm gần 24% so với cùng kỳ năm 2012. Mặc dù XK cá tra vào thị trường Tây Ban Nha liên tục sụt giảm nhưng đây vẫn duy trì là nước NK nhiều cá tra nhất trong khối EU. Tại một số ngư trường hạn ngạch hiện không đủ cho các tàu cá khai thác, nhưng với tình hình kinh tế chưa hồi phục thì nguồn cung thủy sản vẫn đủ để đáp ứng nhu cầu trên thị trường.
Đức: XK cá tra quý II/2013 đạt 10,009 triệu USD, giảm 22,3% so với cùng kỳ năm 2012. XK 6 tháng đầu năm 2013 đạt 22,8 triệu USD, giảm 17,2% so với cùng kỳ năm 2012. Đức tiếp tục là nhà NK cá tra Việt Nam lớn thứ 3 trong khối EU và là thị trường tiêu thụ cá tra đơn lẻ lớn thứ 8 của Việt Nam. Tuy nhiên, tiêu thụ cá tra tại thị trường này hiện vẫn chưa khởi sắc và sẽ khó có đột phá trong tương lai gần. NK cá tra giảm trong 2 quý đầu năm nay một phần do nhu cầu tiêu dùng chung tại thị trường Đức giảm, phần khác do nguồn cung một số loài cá thịt trắng khác dồi dào và có giá rẻ hơn. Vốn nhạy cảm với giá cả nên khi giá một số loài cá thịt trắng khác giảm, người tiêu dùng đã chuyển sang mua các sản phẩm này. Ngoài ra, một phần của sự thay đổi cũng do các chiến dịch quảng bá cá thịt trắng đang diễn ra khá mạnh.
Anh: XK cá tra quý II/2013 đạt 11,6 triệu USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2012. XK 6 tháng đầu năm đạt 19,4 triệu USD, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2012. Đây là nước duy nhất trong 4 nước NK lớn cá tra trong khối EU tăng trưởng trong quý II và 6 tháng đầu năm 2013. Hiện nay nguồn cung cá nội địa của Anh đã cạn kiệt và không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ tại thị trường này. Anh đang phải phụ thuộc vào cá tuyết NK và một số loài cá thịt trắng khác. Với nguồn cung nội địa chỉ đáp ứng được gần 8 tháng trong năm, Anh buộc phải NK ít nhất 30% cá từ ngoài EU để bù đắp nguồn cá tuyết truyền thống. Giá cả là tiêu chí đầu tiên khiến người tiêu dùng quyết định tăng tiêu thụ thủy sản tại Anh. Người Anh có xu hướng mua thủy sản đông lạnh. Dù thị trường bán lẻ tại EU đang gặp khó khăn, nhưng tiêu thụ thủy sản vẫn tăng, đặc biệt là thủy sản đông lạnh. Về chất lượng, người Anh có nhận thức khá cao đối với các thuật ngữ như “sinh thái”, “thương mại công bằng”, “hàm lượng omega-3 cao”, “các nguồn khai thác có trách nhiệm”, “bảo vệ cá heo”, logo MSC và nhãn Friend of the Sea.... Hiện nay đã có một chuỗi siêu thị đầu tiên tại Anh kinh doanh sản phẩm cá tra đạt chứng nhận ASC. Đây là tiền đề để cá tra đạt chứng nhận ASC tiến sâu hơn vào hệ thống siêu thị Anh.
XK cá ngừ tăng khả quan
Trong quý II/2013, EU là thị trường duy nhất trong 3 thị trường truyền thống NK nhiều nhất cá ngừ của Việt Nam có sự tăng trưởng, đạt 35,77 triệu USD, tăng 25,9% so với quý II/2012. Mặc dù tốc độ tăng có chậm hơn so với Quý I/2013, nhưng nếu tính từ đầu năm tới nay, đây cũng là thị trường duy nhất trong 3 nước đứng đầu có sự tăng trưởng. Sáu tháng đầu năm 2013, XK cá ngừ sang đây đạt 68,63 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái.
Năm nay, tỷ trọng XK giữa các sản phẩm cá ngừ chế biến và tươi/sống/đông lạnh của Việt Nam sang các nước trong khối EU gần tương đương nhau. Trong đó, giá trị XK nhóm sản phẩm cá ngừ đóng hộp và chế biến khác tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước (78%). Giá trị XK cá ngừ tươi/sống/đông lạnh thì chỉ tăng nhẹ khoảng 4,5%.
Tính đến hết tháng 6/2013, cá ngừ của Việt Nam đã xuất được sang 22 thị trường trong khối EU. Hai tháng đầu quý II/2013, NK cá ngừ của thị trường lớn thứ 2 trong khối – Italia, mặc đã có sự tăng trưởng trở lại nhưng nhìn chung vẫn sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái.
Hiện tại, các nước EU đã sử dụng hết hạn ngạch NK 22.000 tấn thăn cá ngừ hấp chín đông lạnh được ưu đãi về thuế quan của năm 2013, do đó thời gian tới nhu cầu NK sản phẩm này của các nước EU sẽ chững lại. Việt Nam sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với các nước láng giềng sau việc mở cửa một số khu vực khai thác trên biển Thái Bình Dương. Và với tốc độ tăng trưởng giá trị XK các mặt hàng cá ngừ ở mức cao (3 con số) so với cùng kỳ năm 2012, Ba Lan sẽ là thị trường rất hút hàng.