Xu hướng chung

Trong giai đoạn từ tháng 1-9/2007, nhập khẩu các loại tôm của EU, Mỹ và Nhật Bản giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2006. Trong nhóm này, EU đã nhập 439 nghìn tấn (từ các nước không thuộc khối EU). Tất cả các thị trường thuộc Châu Âu (không kể Anh) tiếp tục được củng cố và tăng trưởng.

Tình hình thị trường tôm Mỹ gây ảnh hưởng rất lớn tới thị trường tôm Châu Âu. Thực tế, các nước xuất khẩu chính cho thị trường Mỹ như Thái Lan, Inđônêxia, Êcuađo gặp nhiều khó khăn hơn khi xuất khẩu sang nước này do đồng USD bị mất giá, nền kinh tế Mỹ trì trệ và thuế chống bán phá giá đối với tôm. Vì vậy, họ tìm kiếm những cơ hội ở các thị trường khác và chủ yếu là quay sang Châu Âu, một thị trường có vẻ hấp dẫn hơn.

Thái Lan là một thí dụ điển hình nhất. Nước này trở thành nhà cung cấp hàng đầu cho Đức. Trong một năm Thái Lan đã tăng gấp ba xuất khẩu tôm của họ sang nước này và tăng gấp đôi xuất khẩu sang Anh. Êcuađo là một trong những nhà xuất khẩu bùng nổ sang thị trường EU và giúp họ củng cố vị trí số một trên thị trường Italia, tăng xuất khẩu 40% sang thị trường Pháp và tăng  9% sang thị trường Tây Ban Nha.

Inđônêxia cũng tăng cường xuất khẩu sang thị trường EU và đặc biệt hơn là họ đã tìm được cho mình một mảng thị trường riêng ở Anh.

Trung Quốc tiếp tục chiếm lĩnh thêm thị phần ở Tây Ban Nha.

Achentina, nhờ có sản lượng lớn  tôm Pleoticus muelleri trong 3 quý đầu năm 2007 nên đã mở rộng đáng kể trên thị trường Tây Ban Nha và đang cố gắng giữ vững vị trí nhà cung cấp số 1 ở đây. Áchentina cũng tăng gấp đôi khối lượng xuất khẩu sang thị trường Italia.

Ấn Độ gặp nhiều khó khăn hơn trên thị trường Anh, mặc dù vẫn giữ vị trí nhà cung cấp hàng đầu nhưng cũng bị giảm 10%. Tôm sú (loài số 1 ở Ấn Độ) đang mất dần tính phổ biến trên một số thị trường thế giới và gặp khó khăn trong cạnh tranh với loài tôm chân trắng giá rẻ đang được nuôi rộng rãi ở các nước Châu Á khác. Tuy nhiên, trong tình hình không sáng sủa đó, Ấn Độ đã tăng 15% xuất khẩu sang Pháp.

Braxin tiếp tục có những tín hiệu suy giảm,  xuất khẩu tôm sang Pháp đã giảm đến 20% trong giai đoạn từ tháng 1-9/2007 (so với cùng kỳ năm 2006). Êcuađo đã vượt qua Braxin để trở thành nhà cung cấp hàng đầu cho thị trường Pháp. Trên thị trường Tây Ban Nha, Braxin chỉ còn chiếm 4% tổng nhập khẩu tôm của nước này, trái với các mức đỉnh của mấy năm trước trên thị trường Tây Ban Nha.

Pháp- Giá tôm thấp kỉ lục

Trong quý III/2007, nhập khẩu tôm của Pháp tiếp tục tăng về khối lượng, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2006 nhưng giảm về giá trị (giảm 3%). Tổng lượng tôm các loại nhập khẩu đạt 74.790 tấn. Giá nhập khẩu TB đạt 4,99 EUR/kg- mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua. Giá tôm giảm không chỉ riêng trên thị trường Pháp mà là tình hình chung trên thị trường thế giới. Braxin và Êcuađo tiếp tục chia nhau thị phần trên thị trường Pháp và lần lượt chiếm 15% và 14%. Tuy nhiên, hai nước trên biểu hiện những xu hướng khác nhau. Năm 2006, xuất khẩu tôm Braxin sang thị trường này giảm 20%, trong khi tôm Êcuađo tăng lượng xuất khẩu lên 40%.

Giá bán trung bình tôm chân trắng Penaeus vannamei của Braxin đạt 3,10 EUR/kg và tiếp tục duy trì thế cạnh tranh với tôm Êcuađo (3,68 EUR/kg). Giá tôm chân trắng trên thị trường bán lẻ của Pháp có rất nhiều giá khác nhau (giá khuyến mại: tôm chân trắng của Braxin, Êcuađo, Guatemala và Vênêxuela cỡ 40-60 con/kg là 7,50 EUR/kg; cỡ 80-100 con/kg là 6,50 EUR/kg; tôm chân trắng Côlômbia cỡ 80-100 con/kg là 4,94 EUR/kg).

Ấn Độ- nhà cung cấp tôm lớn thứ 3 cho thị trường Pháp- trong năm 2006, khối lượng xuất khẩu tôm tăng 15%. Madagasca là nhà cung cấp lớn thứ 4 nhưng trong năm vừa qua lại bị giảm 4%. Trong thời điểm đó, thị trường tôm nước lạnh Pháp có xu hướng giảm nhập khẩu. So với năm 2006, hầu hết các nước cung cấp chính đều giảm mạnh khối lượng xuất khẩu: Hà Lan giảm 11%, Bỉ giảm 9% và Đan Mạch giảm 21%.

Tây Ban Nha - Áchentina trở lại là nhà cung cấp tôm hàng đầu

Trong quí III/2007, khối lượng nhập khẩu tôm của Tây Ban Nha tiếp tục tăng và đạt mức kỉ lục với 122.000 tấn. Tuy nhiên, về giá trị nhập khẩu lại giảm 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Thực tế, tôm nhập khẩu vào thị trường Tây Ban Nha có giá trung bình 4,86 EUR/kg, giảm 0,80 xen so với giá nhập khẩu trung bình của 5 năm trước.

Tình hình khả quan trên là do Áchentina đã giành lại vị trí nhà cung cấp tôm hàng đầu cho Tây Ban Nha. Trong suốt những năm lượng sản lượng khai thác tôm Pleoticus muelleri của Áchentina đạt mức thấp (2003-2005), Áchentina đã mất nhiều thị phần trên thị trường Tây Ban Nha, nhường lại lợi nhuận cho Braxin, Êcuađo và sau này, năm 2005, là các nhà xuất khẩu tôm Trung Quốc. 9 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu tôm Áchentina sang Tây Ban Nha gần như đã đạt gần bằng năm 2002 với 24.992 tấn và tái chiếm vị trí bá chủ của mình trên thị trường này (+86%). Nguyên nhân giá thấp trên thị trường Tây Ban Nha là do sự tràn ngập các sản phẩm giá rẻ từ Áchentina cùng với sự sụt giá tôm trên thị trường thế giới.

Mặc dù nhập khẩu tôm 9 tháng đầu năm 2007 của Tây Ban Nha gần như tương đương với con số của năm 2002, giá nhập khẩu tôm Áchentina là 5,09 EUR/kg giảm so với giá 7,36 EUR/kg trong năm 2002, mức giá trên cũng tương đương một nửa giá tôm năm 2005 (10,54 EUR/kg) khi nguồn cung ở mức thấp nhất. Sản lượng khai thác tôm Áchentina đã được trông đợi sẽ đạt được mức kỉ lục trong năm 2007 nhưng thực tế đã không đạt kết quả khả quan. Khối lượng khai thác 9 tháng đầu năm ở mức cao kỷ lục nhưng trong 3 tháng cuối năm lại ngược lại. Theo Bộ Nông nghiệp, Chăn nuôi, Thuỷ sản và Lương thực Áchentina (SAGPyA), tổng sản lượng khai thác tôm năm 2007 của nước này đạt 46.400 tấn, tăng 4% so với năm 2006.

9 tháng đầu năm 2007, Trung Quốc đã để mất vị trí nhà cung cấp tôm hàng đầu cho Tây Ban Nha nhưng lượng xuất khẩu vào thị trường này vẫn tăng nhẹ, đạt 19.210 tấn. Tuy gặp nhiều khó khăn vì lệnh cấm của EU, nhưng đến năm 2005, Trung Quốc đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trên thị trường Tây Ban Nha và tiếp tục duy trì trong những năm tiếp theo.

Êcuađo, một trong những nhà cung cấp tôm lớn mới nổi lên trên thị trường EU do vụ kiện chống bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ, tiếp tục tăng thị phần của mình tại thị trường Tây Ban Nha và đã tăng lên 9% so với năm 2006.

Anh - Thái Lan tăng gấp đôi lượng xuất khẩu sang Anh

Quí III/200, Anh tiếp tục giảm nhập khẩu tôm (-3% về khối lượng và 5% về giá trị). Nhập khẩu các sản phẩm đông lạnh ổn định và chiếm gần 48% tổng nhập khẩu. Nhập khẩu các sản phẩm chế biến còn ảm đạm hơn với mức giảm 6% còn 31.200 tấn. Các sản phẩm tôm chế biến nhập khẩu vào Anh chủ yếu là tôm nước lạnh. Do vậy nhập khẩu tôm chế biến giảm một phần do nguồn cung từ các nước cung cấp chính thu hẹp. Aixơlen, nhà cung cấp tôm lớn nhất cho Anh, chiếm 20% thị phần với 11.590 tấn thông báo giảm 9% lượng xuất khẩu sang Anh 9 tháng đầu năm 2007.

Đan Mạch giữ vị trí nhà xuất khẩu lớn thứ 3 cho thị trường này cũng giảm 13% lượng xuất khẩu, Canađa: -10%, và Na Uy: -40%.

9 tháng đầu năm 2007, tôm nước lạnh chiếm 45% tổng nhập khẩu tôm của Anh, giảm 16% so với cùng kỳ năm 2006, tạo ra sự thay đổi căn bản trong cơ cấu nhập khẩu tôm của Anh.

Trong số các nhà cung cấp tôm nước ấm cho thị trường Anh, Ấn Độ thông báo xuất khẩu giảm 10% từ 8.400 tấn xuống còn 7.500 tấn trong 9 tháng đầu năm 2007. Trong khi đó, nhập khẩu từ Inđônêxia lại tăng 20%. Tuy nhiên, năm 2007, Anh bùng nổ nhập khẩu tôm Thái Lan. Khối lượng tăng gấp đôi so với năm 2006 với gần 6.000 tấn. Thái Lan trở thành nhà cung cấp tôm đầy tiềm năng cho thị trường này và xu hướng này được dự báo sẽ tiếp tục được duy trì và tăng cường trong các tháng tới. Hiện nay, Mỹ vẫn là nước tiêu thụ tôm Thái Lan lớn nhất, chiếm 61% xuất khẩu tôm của Thái Lan.

Italia - Áchentina chiếm lại thị phần cung cấp

Giống như hầu hết các thị trường Châu Âu khác, nhập khẩu tôm vào Italia tăng nhẹ về khối lượng trong quí III năm 2007 (+3%). Tuy nhiên, giá trị lại giảm 10%. Tổng nhập khẩu tôm của Italia đạt 50.243 tấn, trong đó, Êcuađo chiếm 30% thị phần cung cấp. Tuy nhiên, xuất khẩu tôm Êcuađo sang thị trường này đang dần suy yếu.

Vài năm qua, Êcuađo thông báo sản lượng và doanh số bán tôm liên tục tăng. Mặc dù Mỹ vẫn là nhà nhập khẩu hàng đầu nhưng hiện nay nhiều nhà sản xuất tôm Êcuađo có xu hướng chuyển sang thị trường EU. Áchentina đã giành lại vị thế trên thị trường Italia với xuất khẩu tăng gấp đôi. Tây Ban Nha giữ vị trí thứ ba sau Áchentina cũng có sự tăng trưởng mạnh (64%).

Đức - bùng nổ nhập khẩu tôm từ Thái Lan

Nhập khẩu tôm của Đức tiếp tục được mở rộng với mức tăng mạnh 31%. Trái ngược với các nước nhập khẩu khác trong khối EU, đơn giá nhập khẩu tôm vào Đức vẫn ở mức ổn định.

Giá TB các sản phẩm đông lạnh nhập khẩu vào Đức nói chung giảm nhẹ nhưng được cân bằng nhờ giá TB các sản phẩm chế biến tăng.  Với thị phần 18%, Thái Lan đã trở thành nhà cung cấp tôm số một cho thị trường Đức, và đẩy Ấn Độ xuống vị trí thứ 2.

Quí III/2007, Thái Lan xuất khẩu 6.340 tấn tôm sang Đức. Xuất khẩu tôm Thái Lan sang Đức đã tăng gấp 3 lần chỉ trong 1 năm. Đơn giá xuất khẩu các sản phẩm tôm Thái Lan sang Đức giảm từ 6,53 EUR/kg xuống còn 5,99 EUR/kg. Mặc dù Thái Lan thống lĩnh thị trường Đức nhưng nhập khẩu tôm từ Ấn Độ không chịu sức ép, thậm chí tăng 26%. Cũng như Thái Lan, Ấn Độ cũng phải tìm thị trường mới để cân bằng xuất khẩu khi xuất khẩu sang Mỹ sụt giảm do đồng rupi tăng so với đồng USD và tác động từ thuế CBPG. Tất cả các nước xuất khẩu tôm sang Đức - không ngoại trừ trường hợp nào - đều có tăng trưởng khả quan.

Hà Lan nhà cung cấp lớn thứ 3 cũng tăng 13% lượng xuất khẩu sang Đức (chủ yếu là tái xuất các sản phẩm chế biến) và xuất khẩu tôm Việt Nam sang thịt trường này cũng tăng 10%.

 Triển vọng

Thị trường tôm EU sẽ có thay đổi với sự củng cố vị trí của các nhà xuất khẩu có truyền thống sang thị trường Mỹ. Xu hướng này dự kiến tiếp tục và đẩy mạnh trong tương lai.

Xu hướng chung của ngành tôm thế giới là sự sáp nhập của các nhà sản xuất để có thể cung cấp các sản phẩm chất lượng cao hơn và để chấm dứt tình trạng giảm mức giá như hiện nay. Như Thái Lan sẽ giảm sản lượng 20% vào năm 2008. Thái Lan, Êcuađo và Trung Quốc gần đây nỗ lực phát triển nuôi tôm sinh thái và áp dụng kỹ thuật thân thiện với môi trường. Các nhà sản xuất cũng khuyến khích tăng xuất  khẩu các sản phẩm giá trị gia tăng. Ngoài ra, chi phí sản xuất dự kiến sẽ tăng trong năm 2008 do giá nhiên liệu tăng. 

NTP – BNT – ND

]

Báo cáo khác

Ms. Nguyễn Trang
Email: nguyentrang@vasep.com.vn
Tel: (+84-24) 37715055 - ext. 212
Fax: (+84 24) 37715084
Phone: (+84) 906 151 556