Những nguy cơ của việc thâm canh quá mức trong nuôi tôm

Sản xuất 08:43 30/01/2024 Lê Hằng
(vasep.com.vn) Việc nuôi tôm thâm canh chậm dường như đang có hiệu quả ở châu Mỹ Latinh, nhưng các nhà sản xuất Ecuador vẫn nên thận trọng từ kinh nghiệm ở châu Á, khi mà những khoản đầu tư lớn vào công nghệ mới cũng không thể giải quyết được các vấn đề gây ra bởi tình trạng thả nuôi quá mức trong lịch sử.

Trong vài thập kỷ qua, khi nghề nuôi tôm phát triển, xu hướng chung là nuôi mật độ ngày càng cao hơn để tăng sản lượng. Ở Mỹ Latinh, thuật ngữ “công nghệ hóa” thường được sử dụng để mô tả quá trình này - qua đó, việc áp dụng các hình thức công nghệ khác nhau được sử dụng để tăng mật độ thả giống.

Quy trình công nghệ sẽ tăng sản lượng tôm trên một đơn vị diện tích nuôi, dẫn đến sản lượng tôm toàn cầu sẽ lớn hơn. Tuy nhiên, nó chỉ mang lại lợi nhuận khi tăng hiệu quả nuôi tôm và qua đó – quan trọng nhất – giảm chi phí sản xuất.

Điều này đã thành công ở châu Á trong những năm 2000 và hiện đang hoạt động tốt ở Ecuador. Nhưng đó không phải là một chính sách không có rủi ro.

Từ năm 2002 đến năm 2010, sản lượng tôm ở châu Á đã tăng từ 1 triệu tấn lên 2,5 triệu tấn, trong khi chi phí sản xuất tại một trang trại điển hình ở Thái Lan đã giảm từ 175 baht/kg xuống 90 baht/kg. Trong thời gian đó, các trang trại đã triển khai các giải pháp công nghệ để hỗ trợ tăng trưởng: bao gồm sục khí, cho ăn tự động, ương dưỡng, giống SPF, di truyền, cải thiện dinh dưỡng và quản lý thức ăn cũng như an toàn sinh học loại trừ.

Gần đây hơn, Ecuador đã đi theo quỹ đạo tương tự, với việc tăng sản lượng dẫn đến chi phí thấp hơn, ngay cả khi lạm phát đang gia tăng.

Ecuador về cơ bản đã áp dụng những công nghệ tương tự mà châu Á đã áp dụng thành công từ rất sớm. Họ cũng đóng cửa ao nuôi để không phụ thuộc vào chu kỳ mặt trăng để thu hoạch: do đó cho phép thu hoạch hàng ngày và chế biến được nhiều tôm hơn. Thông qua ứng dụng công nghệ, họ đã giảm chi phí đồng thời tăng năng suất - tương tự như những gì châu Á đã làm vào đầu những năm 2000.

Bước ngoặt ở Đông Nam Á

Dịch bệnh APHND (trước đây gọi là EMS) ở Đông Nam Á vào đầu những năm 2010 đã khiến nguồn cung tôm thế giới trì trệ trong 2 năm và sau đó Ấn Độ và Ecuador đã đẩy mạnh sản xuất, mặc dù với kỹ thuật mật độ tương đối thấp.

Trong khi đó, với nỗ lực không tụt lại phía sau những nước mới này, các nước như Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Trung Quốc đã quyết định phát triển các mô hình nuôi thâm canh hơn, với nhiều biện pháp kiểm soát hơn, trong các đơn vị nuôi ngày càng nhỏ với mục tiêu tăng sản lượng và khắc phục các vấn đề về bệnh.

Mật độ thả giống tăng từ 100 con/m 2 đến có khi trên 300-400 con/m 2 . Để đạt được điều này, các chất khử trùng hóa học, ngày càng nhiều men vi sinh và những thứ được gọi là thức ăn chức năng đã được đưa vào quy trình.

Công nghệ mới có thể tiết kiệm chi phí?

Thị trường xuất khẩu có tính cạnh tranh cao là động lực thúc đẩy sự đổi mới và phản ứng nhanh chóng trong lĩnh vực nuôi tôm. Nhiều nông dân hiện đang xem xét công nghệ để biến những trang trại không có khả năng cạnh tranh ngày hôm nay thành những trang trại có khả năng cạnh tranh vào ngày mai.

Chúng ta đang nghe nhiều về AI, về IoT, về tự động hóa như những cách để tăng hiệu quả và đúng là có thể một số công nghệ sẽ tăng hiệu quả. Tuy nhiên, việc áp dụng phải đi kèm với sự hiểu biết và bằng chứng cho thấy chi phí bổ sung sẽ mang lại hiệu quả cao hơn và lợi tức đầu tư cao hơn.

Cần phải thận trọng: nếu công nghệ được áp dụng một cách bừa bãi vì lợi ích của nó thì điều này có thể dẫn đến thua lỗ thay vì cải thiện tình trạng tài chính của trang trại. Công nghệ thành công phải có khả năng giảm phát.

Không bao giờ vượt quá khả năng chịu tải

Cần phải suy nghĩ thêm ở những khu vực có mật độ và cường độ tăng vượt quá khả năng chịu tải – có thể là của từng ao, toàn bộ trang trại hoặc thậm chí toàn bộ khu vực địa lý.

Vượt quá khả năng chịu tải dẫn đến mất khả năng môi trường để hỗ trợ một hệ thống nuôi trồng lành mạnh. Nhiều sản phẩm và công nghệ hứa hẹn sẽ khắc phục được các vấn đề do vượt quá khả năng chịu tải, nhưng nhiều lời hứa trong số này hóa ra là sai sự thật. Vượt quá khả năng chịu tải sẽ làm tăng sự bùng phát dịch bệnh và  mầm bệnh . Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Trung Quốc đã nhìn thấy hậu quả của việc quá tải và cũng tin rằng chỉ riêng công nghệ sẽ giảm thiểu được vấn đề.

Công nghệ có thể “nuôi” các hệ thống quá tải để tiếp tục tồn tại, nhưng nó có thể phải gánh chịu chi phí làm giảm cơ hội cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sẽ phải đối mặt với việc không thể cạnh tranh trừ khi, như một phần của bất kỳ kế hoạch tăng cường nào, người ta hiểu rằng có những giới hạn và những giới hạn này phải được tôn trọng. Việc bổ sung ngày càng nhiều công nghệ để lấy lại khả năng cạnh tranh có thể còn có hại hơn là chữa lành vết thương.

Trong trường hợp của Thái Lan, ở một mức độ nào đó, việc sử dụng công nghệ đã thành công khi khối lượng sản xuất đã phục hồi – mặc dù không đạt mức cao trước đó. Tuy nhiên, công nghệ bổ sung thực sự đã làm tăng chi phí cho mỗi kg tôm sản xuất, trong khi khối lượng tôm thế giới tăng dẫn đến giá giảm.

Nếu công nghệ mang lại chi phí thấp hơn thì các trang trại đi theo hướng đó thường thành công. Tuy nhiên, với xu hướng giá giảm tiếp tục, do sản xuất thế giới tiếp tục tăng nhanh hơn mức tiêu thụ, hai kịch bản đang phát triển. Kịch bản thứ nhất là các nước xuất khẩu. Nếu các quốc gia này không thể sản xuất tôm hiệu quả hơn thì họ sẽ không thể cung cấp tôm theo giá hàng hóa nữa. Ví dụ Thái Lan và Việt Nam, hiện phải tăng thêm giá trị cho những con tôm mà họ đang muốn xuất khẩu.

Kịch bản hai liên quan đến những quốc gia có thị trường nội địa mạnh mẽ như Trung Quốc, Brazil, Úc và Malaysia (Xin-ga-po) có khả năng tiếp tục phát triển ngành công nghiệp của mình bất chấp giá xuất khẩu cạnh tranh.

Trong phần lớn lịch sử nuôi tôm công nghiệp; người ta đã giả định rằng sẽ có thị trường cho tất cả tôm được sản xuất. Giá cả lên xuống theo chu kỳ, nhưng giả định là nếu bạn xây dựng một trang trại mới, bạn sẽ bán được tôm; tăng sản lượng và bạn vẫn sẽ bán được tôm. Điều này không còn xảy ra nữa và các trang trại phải quan tâm đến chi phí sản xuất của họ.

Giải pháp khả thi cho vấn đề

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để chữa lành những khu vực đã quá tải và hiện đang phải chịu gánh nặng bởi lượng mầm bệnh dư thừa và chất lượng nước bị suy giảm.

Câu trả lời rất đơn giản nhưng lại rất khó thực hiện.

Cường độ nuôi phải được giảm xuống mức không vượt quá khả năng chịu tải và phải thực hiện chương trình SPF cho đàn giống sạch bệnh. Và nếu vấn đề này ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực địa lý thì phải có sự hợp tác giữa các trang trại trong khu vực đó để giảm mức thả giống. Cần phải hiểu rằng chất lượng nước là nền tảng của mọi hoạt động nuôi trồng thủy sản và nếu nước tự nhiên xấu đi do thải ra quá nhiều chất thải – từ các trang trại nuôi tôm hoặc các hoạt động nông nghiệp hoặc công nghiệp khác – việc nuôi tôm sẽ trở nên khó khăn hơn. Nước kém chất lượng làm giảm hiệu quả của hệ thống miễn dịch bẩm sinh của tôm, từ đó khiến tôm dễ bị nhiễm bệnh hơn và sau đó phát tán ngày càng nhiều mầm bệnh ra môi trường. Một vòng phản hồi bắt đầu và việc nuôi tôm hiệu quả ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Điều này quá rõ ràng với bệnh microsporidian EHP. Bất cứ ai theo dõi môi trường bên ngoài ngày nay sẽ tìm thấy các bào tử trong nước, và vì những bào tử này rất khó “tiêu diệt” nên sự lây nhiễm vẫn tiếp tục xảy ra ở các trại giống hoặc trang trại mà không cần áp dụng công nghệ rất đắt tiền.

Ví dụ về sự thành công

Một số trang trại ở Thái Lan, Việt Nam và Malaysia đang học cách thành công trở lại bằng cách không vượt quá khả năng sản xuất của mình. Công thức là thả ít tôm hơn (trở lại mức trước năm 2012, khi nuôi ở Thái Lan thả trung bình 100 con/m 2 ); cung cấp đủ lượng khí cho các giống mới tăng trưởng nhanh; duy trì đáy ao sạch để loại bỏ chất nền cho Vibrio; sử dụng hậu ấu trùng đã được chứng nhận không có EHP; và loại bỏ việc khử trùng khỏi các quy trình quản lý.

Vẫn còn phạm vi cho việc sử dụng thận trọng men vi sinh và thức ăn cân bằng dinh dưỡng – nghĩa là những thức ăn có hàm lượng protein phù hợp với nhu cầu tăng trưởng của tôm đang nuôi.

Tin tốt là các trang trại mở rộng đã có lãi. Và tin tốt hơn nữa là với sự cải tiến về di truyền hiện có, chúng có thể đạt kích thước lớn hơn trong thời gian nuôi ngắn hơn, giảm chi phí ao nuôi và chi phí thức ăn (FCR thấp hơn) và đạt năng suất ao 25-30 tấn/ha/vụ. Điều này vừa bền vững vừa mang lại lợi nhuận trong thế giới cạnh tranh ngày nay.

Kết luận

Cuối cùng, nếu người nuôi tôm muốn thành công liên tục về mặt thương mại trên quy mô toàn cầu thì nhiều quốc gia phải tăng tiêu thụ tôm trong nước, giảm áp lực lên thị trường xuất khẩu. Nhưng họ cũng phải nằm trong khả năng chịu đựng của hệ thống nuôi trồng của mình và trong khả năng chịu đựng của một khu vực được kết nối bằng nguồn nước chung.

Mọi công ty và mọi quốc gia đều mong muốn cải thiện doanh thu từ tôm của mình. Tăng cường mù quáng không phải là cách. Việc thêm mật độ là một lối tắt tính toán và không liên quan gì đến thế giới thực được chi phối bởi khả năng chịu tải.

Di truyền được cải thiện sẽ cung cấp một trong những câu trả lời, nhưng không phải theo cách mà hầu hết mọi người nghĩ - nó sẽ không làm tăng khả năng chịu đựng của một hệ thống hoặc khu vực địa lý nhất định. Di truyền là một công cụ thiết yếu và quan trọng để tăng hiệu quả, nhưng nó không phải là giải pháp cho các vấn đề.

Thay vì tăng mật độ thả tôm để tăng năng suất, cải tiến di truyền có thể giảm thời gian nuôi, dẫn đến nhiều chu kỳ nuôi hơn mỗi năm và giảm FCR – từ đó tăng sản lượng và doanh thu hàng năm đồng thời giảm chi phí. Di truyền làm tăng kích thước tôm, cải thiện doanh thu trên thị trường. Di truyền cũng là công nghệ giúp tăng khả năng chống chịu bệnh cụ thể và cải thiện mức độ biểu hiện miễn dịch bẩm sinh ở tôm.

Mong muốn của tôi là những bài học được rút ra và Châu Mỹ Latinh học hỏi từ kinh nghiệm của Châu Á nơi việc thâm canh quá mức đã làm tăng chi phí sản xuất. Họ phải tìm ra ranh giới về lợi nhuận và duy trì trong đó.

Chứa và xử lý chất thải tôm và bảo vệ nguồn nước khỏi bị phú dưỡng sẽ làm giảm tải lượng mầm bệnh và áp lực sau đó. Bây giờ là lúc bắt đầu giám sát môi trường và nâng cao nhận thức.

Tác giả: Robins McIntosh đã tham gia nuôi tôm hơn 30 năm, sống và làm việc tại Brazil, Hawaii, Myanmar, Philippines, Guatemala, Mexico, Belize, Ấn Độ và Thái Lan.

Các dự án của ông bao gồm phát triển hệ thống nuôi thương phẩm, thức ăn cho tôm và công nghệ trại giống. Ông chịu trách nhiệm phát triển trang trại nuôi tôm thâm canh và mang tính cách mạng đầu tiên không cần thay nước, Nuôi trồng thủy sản Belize.

Ông gia nhập Tập đoàn Charoen Pokphand vào năm 2001 để hỗ trợ tái cơ cấu nghề nuôi tôm ở Thái Lan và Đông Nam Á. Dưới sự chỉ đạo của ông, các trại sản xuất giống đã được hiện đại hóa, các chương trình di truyền được khởi xướng và việc quản lý trang trại được thực hiện có hệ thống và an toàn sinh học hơn.

Ông cũng là Giám đốc điều hành của Homegrown Tôm, một công ty con của CP tại Mỹ chuyên sản xuất tôm tại các cơ sở trong nhà ở Mỹ.

 

 

nuoi tom tham canh

TIN MỚI CẬP NHẬT

Công văn của Cục Thủy sản về cấp SC/CC: Không yêu cầu DN phải nộp thêm các hồ sơ không có trong quy định hiện hành

 |  16:57 25/11/2024

(vasep.com.vn) Ngày 25/11/2024, Cục Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã có Công văn 2437/TS-KTTS về việc tổ chức thực hiện cấp giấy SC, giấy CC.

Nghị quyết 128/NQ-CP: Xử lý các "điểm nghẽn"về pháp luật để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh

 |  16:53 25/11/2024

(vasep.com.vn) Ngày 12/11/2024, Chính phủ ban hành Nghị quyết 218/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2024.

Sản lượng surimi cá minh thái Alaska giảm 13% do nhu cầu yếu

 |  08:33 25/11/2024

(vasep.com.vn) Mùa đánh bắt cá minh thái Alaska năm 2024 chính thức kết thúc vào ngày 1/11, với tổng sản lượng surimi của tiểu bang đạt 174.078 tấn, giảm 12,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ngư trường cá ngừ của Senegal đạt chứng nhận MSC

 |  08:31 25/11/2024

(vasep.com.vn) Một ngư trường đánh bắt cá ngừ Đại Tây Dương của Senegal, đã trở thành ngư trường đầu tiên trong khu vực đạt được chứng nhận của Hội đồng Quản lý Biển (MSC).

Xuất khẩu tôm sang Mỹ và những diễn biến liên quan

 |  08:28 25/11/2024

(vasep.com.vn) Xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ tháng 10 năm nay đạt hơn 80 triệu USD, tăng 17%. Lũy kế 10 tháng, XK tôm sang thị trường này thu về 646 triệu USD, tăng 10% so với cùng kỳ.

Giá cá tuyết và cá haddock H&G Đại Tây Dương tăng mạnh

 |  08:37 22/11/2024

(vasep.com.vn) Giá cá tuyết và cá haddock Atlantic H&G đông lạnh từ Nga và Na Uy trong tuần 45 của năm 2024 (từ ngày 4 đến 10 tháng 11) đã tăng từ 54% đến 140% so với tuần 52 của năm 2023 (từ ngày 25 đến 31 tháng 12). Đây là tuần sau khi Tổng thống Mỹ Joseph Biden ban hành lệnh hành pháp (EO) 14114 mở rộng lệnh cấm nhập khẩu hải sản từ Nga, bao gồm cả các sản phẩm chế biến tại các quốc gia thứ ba như Trung Quốc.

Các nhóm nghề cá EU ủng hộ lệnh cấm khai thác biển sâu

 |  08:36 22/11/2024

(vasep.com.vn) Một liên minh các hội đồng cố vấn nghề cá châu Âu đã thông qua đề xuất cấm khai thác biển sâu, với lý do thiếu bằng chứng cho thấy hoạt động này sẽ không gây hại cho sinh vật biển và hệ sinh thái.

Tăng cường bảo vệ môi trường trong lĩnh vực thủy sản

 |  08:33 22/11/2024

Thời gian qua, với việc giải quyết các vấn đề môi trường, ngành thủy sản phải đối mặt với không ít hạn chế và thách thức.

WCPFC kêu gọi tăng cường giám sát và bảo tồn bền vững nguồn lợi thủy sản tại cuộc họp thường niên

 |  08:52 21/11/2024

(vasep.com.vn) Tại cuộc họp thường niên của Ủy ban Quản lý Thủy sản Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC), diễn ra từ ngày 28 tháng 11 đến 3 tháng 12 năm 2024 tại Fiji, các nhà quản lý thủy sản sẽ bàn về việc tăng cường giám sát và áp dụng các biện pháp bảo tồn để duy trì tính bền vững cho ngành thủy sản cá ngừ, ngành có giá trị và sản lượng lớn nhất thế giới. Khu vực Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPO) chiếm 51% sản lượng cá ngừ toàn cầu, và WCPFC đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý nguồn lợi thủy sản tại khu vực này.

Infographic: Xuất khẩu Cá ngừ của Việt Nam 10 tháng đầu năm 2024

 |  08:49 21/11/2024

(vasep.com.vn) Tháng 10, giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam đạt mức cao nhất kể từ đầu năm 2024. Tính luỹ kế 10 tháng đầu năm 2024, giá trị XK cá ngừ tăng 19%, đạt 821 triệu USD. XK cá ngừ sang các thị trường chính hiện đều tăng so với cùng kỳ.

VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM

Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội

Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO

Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu

Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông

Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn

Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh

Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn

VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội

Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn

© Copyright 2020 - Mọi hình thức sao chép phải được sự chấp thuận bằng văn bản của VASEP

DANH MỤC