Nghiên cứu so sánh giữa hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn, biofloc và hệ thống cộng sinh
Điều này giúp có thể phổ biến hoạt động bằng cách sử dụng các hệ thống thâm canh, chẳng hạn như Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS), Hệ thống công nghệ Biofloc (BFT) và Hệ thống Synbiotic. Tuy nhiên, việc thiếu các nghiên cứu so sánh giữa các hệ thống nuôi này sử dụng nước có độ mặn thấp và tác động của việc sử dụng chúng đối với việc kiểm soát các hợp chất nitơ và thành phần vi khuẩn của hệ thống dẫn đến khó có thể đưa ra những lựa chọn tối ưu. Do đó, mục đích của bài viết này này là phân tích tác động của các hệ thống nuôi khác nhau đối với chất lượng nước, thành phần sinh vật phù du và sự tăng trưởng của tôm thẻ trong nước có độ mặn thấp và mật độ thả cao.
Nghiên cứu này được thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu và mở rộng nông nghiệp thủy sản thuộc Đại học bang Virginia, Hoa Kỳ. Tôm được nuôi thử nghiệm trong nước có độ mặn thấp trong 30 ngày trong các bể 0,1 m3 để đánh giá các phương pháp xử lý sau, tất cả đều có ba lần lặp lại: Hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS), Hệ thống công nghệ Biofloc (BFT) và Hệ thống Synbiotic (Synbiotic). Nước sử dụng trong thí nghiệm được chuẩn bị bằng cách trộn nước ngọt đã khử clo với muối nhân tạo để đạt độ mặn 2 g L-1. Trong nghiệm thức RAS, nước liên tục được tuần hoàn bằng máy bơm ly tâm có lưu lượng khoảng 180 L h-1 (Doheny, model 2601, 0,75 HP), được lọc qua bộ lọc cơ học và sinh học trước khi đưa các đơn vị thí nghiệm trở lại. Hệ thống RAS có tổng thể tích khoảng 0,6 m3. Nghiệm thức BFT và Synbiotic là trao đổi nước tĩnh chứa các chất nền nhân tạo được đưa vào các đơn vị thí nghiệm để hỗ trợ quá trình nitrat hóa. Tất cả các đơn vị thử nghiệm đều được chiếu sáng bằng đèn LED có quang phổ 5000 K + 660 nm ánh sáng đỏ. Đèn được đặt cách bể 33 cm và theo chu kỳ quang hợp 12 giờ sáng và 12 giờ tối. Trong tất cả các nghiệm thức, nhiệt độ nước được duy trì gần 30 °C. Trong quá trình thử nghiệm, tôm được cho ăn hai lần một ngày với thức ăn thương mại có chứa 35% protein thô và 7% lipid (Zeigler Bros.). Lượng thức ăn hàng ngày được tính toán theo Jory et al. (2001).
Chất lượng nước
Nhiệt độ được giữ ở mức khoảng 30 °C trong tất cả các nghiệm thức (Bảng 2). DO cao hơn 5 mg L−1. TAN, NO3−-N và TSS cao hơn trong các nghiệm thức BFT và Synbiotic so với RAS (giá trị p <0,01) (Bảng 1). SS cao hơn trong nghiệm thức BFT so với RAS và Synbiotic (giá trị p <0,05) (Bảng 1). Trong quá trình thử nghiệm, nghiệm thức BFT có nhiều thay đổi hơn khi TAN trung bình vượt quá 1 mg L−1 (Hình 1a). Nồng độ trung bình của NO2−-N thấp hơn 0,5 mg L−1 trong tất cả các nghiệm thức, không có đột biến trong suốt thời gian thử nghiệm (Bảng 2, Hình 1b). Một mô hình nồng độ NO3−-N tăng đã được quan sát thấy trong suốt quá trình thử nghiệm ở nghiệm thức BFT và Synbiotic (Hình 1c).
Vào đầu thử nghiệm, Ca2+ cao hơn ở RAS so với BFT (Bảng 2. Mg2+ và tỷ lệ Mg:Ca cao hơn ở BFT và Synbiotic so với RAS. Độ cứng tổng thể cao hơn ở BFT so với RAS (Bảng 2). Vào cuối thử nghiệm, Ca2+ cao hơn ở RAS so với BFT và độ cứng tổng thể cao hơn ở RAS và Synbiotic so với BFT (Bảng 3).
Bảng 1. Các biến số về chất lượng nước trong quá trình nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng
Các biến số về chất lượng nước trong quá trình nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc (BFT) và hệ thống cộng sinh (Synbiotic) với nước có độ mặn thấp trong 30 ngày.
Dữ liệu là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. DO: oxy hòa tan; TAN: tổng nitơ amoniac; NO2−-N: nitơ nitrit; NO3−-N: nitơ nitrat; CO2: cacbon dioxit; TSS: tổng chất rắn lơ lửng; SS: chất rắn lắng.
Bảng 2. Thành phần ion nước trong quá trình nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng
Thành phần ion nước trong quá trình nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc (BFT) và hệ thống cộng sinh (Synbiotic) với nước có độ mặn thấp trong 30 ngày.
Hình 1. Nồng độ nitơ amoniac tổng số (TAN, a), nitơ nitrit (NO2−-N, b) và nitơ nitrat (NO3−-N, c)
Nồng độ nitơ amoniac tổng số (TAN, a), nitơ nitrit (NO2−-N, b) và nitơ nitrat (NO3−-N, c) trong quá trình nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc (BFT) và hệ thống cộng sinh (Synbiotic) với nước có độ mặn thấp trong 30 ngày.
Thành phần sinh vật phù du
Thực vật phù du
Nghiệm thức BFT có tổng lượng thực vật phù du cao hơn so với hai nghiệm thức còn lại (giá trị p <0,01) (Hình 2a). Nghiệm thức RAS chủ yếu là Bacillariophyta, trong khi BFT và Synbiotic chủ yếu là Chlorophyta (Hình 3a). BFT có tổng lượng Chlorophyta và Bacillariophyta cao hơn so với Synbiotic và RAS (giá trị p <0,01) (Hình 4).
Động vật phù du
BFT và Synbiotic có tổng số lượng động vật phù du cao hơn so với RAS (giá trị p <0,01) (Hình 2b). Tất cả các nghiệm thức đều có sự thống trị của động vật nguyên sinh có roi (Hình 3b). BFT và Synbiotic cho thấy một mô hình tương tự về số lượng tương đối của động vật phù du (Hình 3b). BFT và Synbiotic có số lượng roi và luân trùng cao hơn so với RAS (giá trị p <0,01) (Hình 5a và c). Synbiotic có số lượng động vật nguyên sinh có lông và amip cao hơn so với RAS và BFT (giá trị p <0,01) (Hình 5b và d).
Tăng trưởng của tôm
Trọng lượng cuối cùng và tốc độ tăng trưởng hàng tuần cao hơn ở chế độ BFT và Synbiotic (giá trị p <0,05) (Bảng 3). Tỷ lệ sống sót năng suất cao hơn ở chế độ Synbiotic (giá trị p <0,01 và <0,05) (Bảng 3). FCR thấp hơn ở chế độ Synbiotic (giá trị p <0,05) (Bảng 3).
Bảng 4. Kết quả tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng vào cuối chu kỳ nuôi siêu thâm canh trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc (BFT) và hệ thống cộng sinh (Synbiotic) với nước có độ mặn thấp trong 30 ngày.
Hệ thống Synbiotic có thể được xem xét cho hệ thống siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng với nước có độ mặn thấp. Synbiotic cung cấp khả năng kiểm soát tốt hơn các hợp chất nitơ trong suốt thời gian thử nghiệm so với BFT và lượng trùng lông và amip cao hơn so với RAS và BFT. Điều này được phản ánh trong tốc độ tăng trưởng của tôm, trong nghiệm thức này đạt được tỷ lệ sống, năng suất cao hơn và FCR thấp hơn so với RAS và BFT.
Nguồn: Tép Bạc
(vasep.com.vn) Để ứng phó với lệnh cấm của chính phủ Trung Quốc đối với các sản phẩm hải sản Nhật Bản vào tháng 9 năm ngoái, Sugiyo, một công ty chế biến surimi lớn của Nhật Bản, đang chuyển hướng bằng cách tiếp thị thanh cua, được sản xuất tại nhà máy ở Hoa Kỳ, sang thị trường Trung Quốc.
Hội nghị Thượng đỉnh Đa dạng sinh học của Liên hợp quốc lần thứ 16 (COP 16) được coi là bước đi quan trọng để thế giới tạo dựng "hòa bình với thiên nhiên".
(vasep.com.vn) Cá rô phi và cá tra là các loài cá thịt trắng được ưa thích trên thế giới vì giá cả hợp lý, thơm ngon, giàu dinh dưỡng. Tại một số thị trường lớn như Hoa Kỳ, cá rô phi được tiêu thụ nhiều hơn so với cá tra. Trung Quốc hiện đang là nguồn cung cá rô phi lớn nhất cho thị trường này. Tuy nhiên, 9 tháng đầu năm nay, thị trường cá rô phi đang có sự thay đổi, cả về sức mua, nguồn cung và sức tiêu thụ.
(vasep.com.vn) Chương trình mới của MSC có mục tiêu cuối cùng là giúp các ngư trường đạt được chứng nhận MSC. Sáng kiến này bổ sung cho các Dự án Cải thiện Ngư trường (FIP) hiện có.
(vasep.com.vn) Sản lượng tôm nuôi của Ecuador, Châu Á và Trung Quốc dự kiến sẽ có mức tăng trưởng nhẹ vào năm tới, trong khi Ấn Độ dự kiến sẽ phục hồi sau sự sụt giảm sản lượng trong năm 2023 và 2024.
(vasep.com.vn) Sản lượng nuôi cá chẽm và cá tráp (seabass và seabream) ở Địa Trung Hải đang chậm lại sau nhiều năm tăng trưởng nhanh chóng, theo ông Gorjan Nikolik, nhà phân tích cao cấp của ngân hàng Hà Lan Rabobank.
(vasep.com.vn) EU đã đạt được thỏa thuận về hạn ngạch đánh bắt cho Biển Baltic trong năm 2025. Các loài chủ chốt bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận này bao gồm cá trích, cá tuyết và cá hồi.
3 quý của năm 2024, sản lượng tôm nước lợ là hơn 1,1 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,8 tỷ USD. Trong khi mục tiêu ngành thủy sản đặt ra cho xuất khẩu tôm cả năm là 4 tỷ USD.
Theo Sở NN&PTNT Vĩnh Long, hiện nay tình hình xuất khẩu cá tra gặp khó khăn, giá cá thương phẩm giảm, chi phí sản xuất tăng khiến người nuôi e ngại thả giống, diện tích nuôi cá tra giảm so cùng kỳ
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn