Không phải tất cả chính sách đều có hiệu quả và tác động nhanh chóng đến doanh nghiệp

Chính sách 08:27 20/09/2022 Bảo Ngọc
Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế cho rằng, các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội đã đạt được những thành tựu không nhỏ, tuy nhiên vẫn cần có những điều chỉnh cả trong ngắn hạn.

PGS. TS. Nguyễn Trúc Lê, đại diện Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội tham gia thảo luận

Đánh giá các cơ chế, chính sách hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo xu hướng phục hồi tính cực của các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước, bảo đảm nguồn cung tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Tuy nhiên, PGS. TS. Nguyễn Trúc Lê và nhóm Tư vấn Chính sách, đại diện Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội cũng phải nhấn mạnh rằng, không phải tất cả các chính sách đều có hiệu quả và tác động nhanh chóng đến doanh nghiệp.

“Nhiều chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập, doanh nghiệp khó thụ hưởng; các thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiều giấy phép con liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp”, ông Lê lý giải khi bắt đầu bài tham luận đánh giá kết quả thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào nhóm nhiệm vụ liên quan tới Hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh tại Nghị quyết số 11/NQ-CP.

Cho đến thời điểm này, nhóm nghiên cứu nhận định, Chương trình hỗ trợ khôi phục nền kinh tế đang được Chính phủ triển khai rất đồng bộ và đã có sự tính toán kỹ lưỡng tránh sự chồng lấn giữa các giải pháp ở trong cùng một nhóm chính sách hay giữa các nhóm chính sách với nhau.

Các chính sách tập trung chủ yếu vào nhóm chính sách tài khóa, trong đó Chính phủ xác định chi cho đầu tư phát triển, miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí và hỗ trợ 2% lãi suất là các giải pháp trọng tâm. Nhờ sự đồng bộ của các giải pháp, chương trình đã thu được một số kết quả khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định.

Thứ nhất, chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập, doanh nghiệp khó thụ hưởng, chưa kịp thời điều chỉnh các bất cập.

Ví dụ: Việc tiếp cận nguồn vốn rẻ với chính sách hỗ trợ lãi suất 2% khá khó khăn do doanh nghiệp khó đáp ứng được các điều kiện cho vay. Có doanh nghiệp không được giải ngân vì không có tài sản thế chấp, trong khi ngân hàng kiên quyết không hạ chuẩn cho vay.

Có hộ kinh doanh dịch vụ thu nhập thấp, song không thể tiếp cận chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, vì lý do tỉnh đó chưa quy định mức thu nhập bao nhiêu là thấp.

Có hợp tác xã đủ điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, nhưng không có hóa đơn đỏ theo yêu cầu của Bộ Tài chính, mà chỉ có hóa đơn bán lẻ, hợp đồng mua bán.

Ngoài các vướng mắc nêu trên, một nguyên nhân khác khiến khách hàng vay vốn e ngại tiếp cận gói hỗ trợ lãi suất 2% là tham gia chương trình hỗ trợ lãi suất sẽ phải làm việc với các đoàn thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền.

Thứ hai, các thủ tục hành chính còn rất rườm rà, phức tạp, làm giảm hiệu quả của chính sách, đặc biệt là có quá nhiều giấy phép con liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp.

Tuy công cuộc cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam đã có nhiều tiến triển, tuy nhiên mức độ phức tạp còn rất lớn, dẫn đến việc các chính sách tại Việt Nam có tính ứng dụng không cao, hoặc gây khó khăn cho hoạt động doanh nghiệp.

Các điều kiện để được hưởng chính sách chưa rõ ràng, các mục tiêu chưa được cụ thể, đặc biệt nhóm giải pháp thuộc chính sách tiền tệ. Ví dụ: Để nhận một khoản tiền nhỏ hỗ trợ Covid-19, người lao động phải hoàn thiện quá nhiều hồ sơ giấy tờ phức tạp, dẫn tới họ không có động lực thực hiện việc này. Ngoài ra, các hộ kinh doanh tuy là đối tượng thực sự khó khăn và mong muốn được giảm lãi vay, lại khó tiếp cận chính sách vay hỗ trợ lãi suất 2% do điều kiện phải có giấy phép đăng ký kinh doanh.

Thứ ba, các chính sách đa số được thiết kế và thực thi theo hướng bình quân hóa giữa các địa phương, ngành nghề, quy mô, mà ít tính đến mức độ ảnh hưởng và khả năng chống chịu giữa các ngành nghề cũng như các doanh nghiệp.

Ví dụ: Để đẩy nhanh tiến độ triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%, đối tượng thụ hưởng chính sách này cần được mở rộng. Cụ thể, chính sách nên hỗ trợ lãi suất cả đồng ngoại tệ cho những doanh nghiệp xuất khẩu. Thực tế, có những doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản thuộc nhóm ngành được hỗ trợ lãi suất nhưng họ chỉ vay bằng ngoại tệ.

Thứ tư, liều lượng chính sách còn khiêm tốn, cùng với đó là số lượng đối tượng được hỗ trợ quá nhiều, nên lợi ích từ chính sách bị dàn trải. 

Quy mô gói hỗ trợ kinh tế của Việt Nam đã tăng lên tương đối lớn năm 2022 (bằng 4,05% GDP dự kiến).

Tuy nhiên, tổng quy mô gói hỗ trợ tài khóa - tiền tệ của Việt Nam trong thời gian qua thấp hơn mức trung bình toàn thế giới khoảng 16% GDP, các nước mới nổi khoảng 7,5% GDP và các nước thu nhập thấp khoảng 4,28% GDP.

Lý giải về nguyên nhân, nguyên nhân đầu tiên được nhắc đến là chính sách nhà nước trong một số trường hợp đưa ra các tiêu chí phi thực tế, không sát đối với hoạt động doanh nghiệp.

Thứ hai, trong một số trường hợp, các văn bản luật khi được ban hành quá mơ hồ, thiếu hướng dẫn cụ thể, hoặc có quá nhiều văn bản hướng dẫn chồng chéo, khiến cho nhóm ngân hàng và doanh nghiệp khó khăn trong việc hiểu ý các văn bản luật, làm các chủ thể kinh tế này không thể triển khai một cách quyết liệt, rõ ràng.

Thứ ba, các văn bản luật chưa được cập nhật thường xuyên theo thực tế phát triển kinh tế, xã hội. Nhiều văn bản luật chậm cập nhật gây khó khăn cho hoạt động doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng gặp khó khăn trong việc phải thực hiện nhiều mục tiêu cùng lúc: Tăng trưởng kinh tế - Kiềm chế làm, ổn định sản xuất, kinh doanh - Phòng chống dịch bệnh, tăng quy mô hỗ trợ - Đảm bảo an toàn tín dụng, …

Ngoài ra, cũng có nguyên nhân từ phía doanh nghiệp trong nhận thức và lựa chọn gói ưu đãi phù hợp.

Từ các phân tích này, nhóm nghiên cứu cho rằng, các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội đã đạt được những thành tựu không nhỏ, tuy nhiên vẫn cần có những điều chỉnh cả trong ngắn hạn và dài hạn theo 4 hướng chính sau.

Một là, các chính sách phải xây dựng trên nguyên tắc can thiệp có mục tiêu;

Hai là, không thực hiện các chính sách hỗ trợ hay can thiệp đại trà;

Ba là, các chính sách cần xác định rõ thời kỳ áp dụng để đảm bảo tính linh hoạt (nghĩa là có lộ trình khi nào áp dụng, kết thúc khi nào và kế tiếp chính sách nào);

Bốn là, ưu tiên hỗ trợ các nhóm ngành trong các lĩnh vực tạo bệ đỡ kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến các ngành khác (logistic, ngành nguyên liệu…).

Bảo Ngọc (Theo báo Đầu tư)

chinh sach hieu qua tac dong doanh nghiep

TIN MỚI CẬP NHẬT

Thương mại cá thịt trắng toàn cầu đối mặt nhiều biến động

 |  09:01 05/12/2025

(vasep.com.vn) Thị trường cá tuyết và cá haddock đang chịu tác động mạnh từ các yếu tố địa chính trị, gồm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Nga và sự thay đổi trong chính sách thuế của Trung Quốc. Những diễn biến này khiến nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu trở nên bất ổn, gia tăng rủi ro cho các nhà xuất khẩu của Na Uy.

Xuất khẩu tôm Ấn Độ tăng tốc bất chấp chiến tranh thương mại với Mỹ

 |  08:55 05/12/2025

Bất chấp căng thẳng thương mại leo thang với Hoa Kỳ, ngành tôm Ấn Độ vẫn ghi nhận đà tăng trưởng mạnh trong năm tài chính 2026, theo Economic Times. Dữ liệu từ CareEdge Ratings cho thấy trong năm tháng đầu năm tài chính, xuất khẩu tôm của Ấn Độ tăng 18% về giá trị, lên 2,43 tỷ USD, và tăng 11% về khối lượng, đạt 348.000 tấn.

Nga – Na Uy đàm phán ngành khai thác cá tuyết

 |  08:47 05/12/2025

(vasep.com.vn) Từ ngày 8 đến 12/12/2025, Ủy ban Thủy sản Nga – Na Uy sẽ tiến hành vòng đàm phán quan trọng trong bối cảnh hoạt động khai thác cá tuyết tại Biển Barents đang chịu tác động lớn từ các biện pháp trừng phạt và căng thẳng chính trị. EU và Na Uy trước đó đã áp lệnh hạn chế đối với hai doanh nghiệp Nga là Norebo và Murman Seafood, làm gián đoạn truyền thống hợp tác và chia sẻ ngư trường giữa hai nước.

Nga xây dựng nhà máy thức ăn thủy sản vùng Saratov

 |  08:41 05/12/2025

(vasep.com.vn) Dự án xây dựng một nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản đang được triển khai tại vùng Saratov, đánh dấu bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của khu vực. Công trình đặt tại quận Balashovsky, với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ ruble và dự kiến hoàn thành vào năm 2026.

Brazil trước nguy cơ siết quản lý cá rô phi và tác động đến ngành xuất khẩu

 |  09:02 04/12/2025

(vasep.com.vn) Chính phủ Brazil dự kiến sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc liệu cá rô phi có bị xếp vào danh mục loài ngoại lai xâm lấn hay không vào năm 2026. Trước đó, vào tháng 10/2025, Ủy ban Đa dạng Sinh học Quốc gia (Conabio), trực thuộc Bộ Môi trường, đã đưa cá rô phi vào Danh sách chính thức các loài ngoại lai xâm lấn. Việc phân loại này chưa đồng nghĩa với lệnh cấm nuôi, nhưng đã làm dấy lên tranh luận trong ngành, khi cơ quan môi trường cảnh báo rằng cá rô phi đang xuất hiện ở nhiều con sông ngoài vùng nuôi, có nguy cơ gây mất cân bằng sinh thái.

Mỹ: Giá ghẹ xanh và ghẹ đỏ tiếp tục neo cao dù lệnh cấm nhập khẩu được nới lỏng

 |  08:59 04/12/2025

(vasep.com.vn) Giá ghẹ xanh (blue swimming crab – BSC) và ghẹ đỏ (red swimming crab – RSC) trên thị trường Mỹ vẫn duy trì ở mức kỷ lục, dù ngành nhập khẩu vừa nhận được “phao cứu sinh” tạm thời từ Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ (CIT) đối với lệnh cấm nhập khẩu liên quan đến Đạo luật Bảo vệ Động vật Có vú Biển (MMPA).

Xuất khẩu tôm Ấn Độ: Bức tranh biến động và bài học chiến lược cho tôm Việt Nam

 |  08:57 04/12/2025

(vasep.com.vn) Trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành tôm Ấn Độ trải qua một trong những giai đoạn nhiều biến động nhất của thập kỷ. Sản lượng xuất khẩu tăng nhẹ nhưng phân hóa mạnh theo từng tháng, giá trị xuất khẩu tăng cao hơn sản lượng, trong khi cấu trúc thị trường chuyển dịch nhanh chóng dưới tác động của cú sốc thuế quan tại Mỹ.

Peru: Tổng hạn ngạch cá cơm cho mùa đánh bắt thứ hai đạt 1,63 triệu tấn

 |  08:56 04/12/2025

(vasep.com.vn) Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) đã đặt ra tổng sản lượng đánh bắt được (TAC) đối với cá cơm (Engraulis ringens) và cá cơm trắng (Anchoa nasus) ở vùng biển miền trung bắc Peru là 1,63 triệu tấn cho mùa đánh bắt thứ hai vào năm 2025.

Hàn Quốc: Nhập khẩu cá minh thái đông lạnh giảm mạnh trong tháng 10

 |  08:48 04/12/2025

(vasep.com.vn) Nhập khẩu cá minh thái đông lạnh của Hàn Quốc trong tháng 10 đạt 6.391 tấn, giảm 61% so với mức 16.488 tấn của cùng kỳ năm 2023. Tính lũy kế 10 tháng đầu năm, Hàn Quốc nhập khẩu 101.521 tấn, thấp hơn 17% so với 121.625 tấn của cùng kỳ năm trước.

Kiểm tra, xử lý vi phạm khai thác IUU phải thực chất, minh bạch, có bằng chứng rõ ràng

 |  09:40 03/12/2025

Sáng 2/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) chủ trì phiên họp lần thứ 24 của Ban Chỉ đạo, kết nối trực tuyến với 21 tỉnh, thành phố ven biển.

VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM

Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội

Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO

Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu

Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông

Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn

Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh

Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn

VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội

Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn

© Copyright 2020 - Mọi hình thức sao chép phải được sự chấp thuận bằng văn bản của VASEP

DANH MỤC