PGS. TS. Nguyễn Trúc Lê, đại diện Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội tham gia thảo luận
Đánh giá các cơ chế, chính sách hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo xu hướng phục hồi tính cực của các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước, bảo đảm nguồn cung tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, PGS. TS. Nguyễn Trúc Lê và nhóm Tư vấn Chính sách, đại diện Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội cũng phải nhấn mạnh rằng, không phải tất cả các chính sách đều có hiệu quả và tác động nhanh chóng đến doanh nghiệp.
“Nhiều chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập, doanh nghiệp khó thụ hưởng; các thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiều giấy phép con liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp”, ông Lê lý giải khi bắt đầu bài tham luận đánh giá kết quả thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào nhóm nhiệm vụ liên quan tới Hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh tại Nghị quyết số 11/NQ-CP.
Cho đến thời điểm này, nhóm nghiên cứu nhận định, Chương trình hỗ trợ khôi phục nền kinh tế đang được Chính phủ triển khai rất đồng bộ và đã có sự tính toán kỹ lưỡng tránh sự chồng lấn giữa các giải pháp ở trong cùng một nhóm chính sách hay giữa các nhóm chính sách với nhau.
Các chính sách tập trung chủ yếu vào nhóm chính sách tài khóa, trong đó Chính phủ xác định chi cho đầu tư phát triển, miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí và hỗ trợ 2% lãi suất là các giải pháp trọng tâm. Nhờ sự đồng bộ của các giải pháp, chương trình đã thu được một số kết quả khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định.
Thứ nhất, chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập, doanh nghiệp khó thụ hưởng, chưa kịp thời điều chỉnh các bất cập.
Ví dụ: Việc tiếp cận nguồn vốn rẻ với chính sách hỗ trợ lãi suất 2% khá khó khăn do doanh nghiệp khó đáp ứng được các điều kiện cho vay. Có doanh nghiệp không được giải ngân vì không có tài sản thế chấp, trong khi ngân hàng kiên quyết không hạ chuẩn cho vay.
Có hộ kinh doanh dịch vụ thu nhập thấp, song không thể tiếp cận chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, vì lý do tỉnh đó chưa quy định mức thu nhập bao nhiêu là thấp.
Có hợp tác xã đủ điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, nhưng không có hóa đơn đỏ theo yêu cầu của Bộ Tài chính, mà chỉ có hóa đơn bán lẻ, hợp đồng mua bán.
Ngoài các vướng mắc nêu trên, một nguyên nhân khác khiến khách hàng vay vốn e ngại tiếp cận gói hỗ trợ lãi suất 2% là tham gia chương trình hỗ trợ lãi suất sẽ phải làm việc với các đoàn thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, các thủ tục hành chính còn rất rườm rà, phức tạp, làm giảm hiệu quả của chính sách, đặc biệt là có quá nhiều giấy phép con liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp.
Tuy công cuộc cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam đã có nhiều tiến triển, tuy nhiên mức độ phức tạp còn rất lớn, dẫn đến việc các chính sách tại Việt Nam có tính ứng dụng không cao, hoặc gây khó khăn cho hoạt động doanh nghiệp.
Các điều kiện để được hưởng chính sách chưa rõ ràng, các mục tiêu chưa được cụ thể, đặc biệt nhóm giải pháp thuộc chính sách tiền tệ. Ví dụ: Để nhận một khoản tiền nhỏ hỗ trợ Covid-19, người lao động phải hoàn thiện quá nhiều hồ sơ giấy tờ phức tạp, dẫn tới họ không có động lực thực hiện việc này. Ngoài ra, các hộ kinh doanh tuy là đối tượng thực sự khó khăn và mong muốn được giảm lãi vay, lại khó tiếp cận chính sách vay hỗ trợ lãi suất 2% do điều kiện phải có giấy phép đăng ký kinh doanh.
Thứ ba, các chính sách đa số được thiết kế và thực thi theo hướng bình quân hóa giữa các địa phương, ngành nghề, quy mô, mà ít tính đến mức độ ảnh hưởng và khả năng chống chịu giữa các ngành nghề cũng như các doanh nghiệp.
Ví dụ: Để đẩy nhanh tiến độ triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%, đối tượng thụ hưởng chính sách này cần được mở rộng. Cụ thể, chính sách nên hỗ trợ lãi suất cả đồng ngoại tệ cho những doanh nghiệp xuất khẩu. Thực tế, có những doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản thuộc nhóm ngành được hỗ trợ lãi suất nhưng họ chỉ vay bằng ngoại tệ.
Thứ tư, liều lượng chính sách còn khiêm tốn, cùng với đó là số lượng đối tượng được hỗ trợ quá nhiều, nên lợi ích từ chính sách bị dàn trải.
Quy mô gói hỗ trợ kinh tế của Việt Nam đã tăng lên tương đối lớn năm 2022 (bằng 4,05% GDP dự kiến).
Tuy nhiên, tổng quy mô gói hỗ trợ tài khóa - tiền tệ của Việt Nam trong thời gian qua thấp hơn mức trung bình toàn thế giới khoảng 16% GDP, các nước mới nổi khoảng 7,5% GDP và các nước thu nhập thấp khoảng 4,28% GDP.
Lý giải về nguyên nhân, nguyên nhân đầu tiên được nhắc đến là chính sách nhà nước trong một số trường hợp đưa ra các tiêu chí phi thực tế, không sát đối với hoạt động doanh nghiệp.
Thứ hai, trong một số trường hợp, các văn bản luật khi được ban hành quá mơ hồ, thiếu hướng dẫn cụ thể, hoặc có quá nhiều văn bản hướng dẫn chồng chéo, khiến cho nhóm ngân hàng và doanh nghiệp khó khăn trong việc hiểu ý các văn bản luật, làm các chủ thể kinh tế này không thể triển khai một cách quyết liệt, rõ ràng.
Thứ ba, các văn bản luật chưa được cập nhật thường xuyên theo thực tế phát triển kinh tế, xã hội. Nhiều văn bản luật chậm cập nhật gây khó khăn cho hoạt động doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng gặp khó khăn trong việc phải thực hiện nhiều mục tiêu cùng lúc: Tăng trưởng kinh tế - Kiềm chế làm, ổn định sản xuất, kinh doanh - Phòng chống dịch bệnh, tăng quy mô hỗ trợ - Đảm bảo an toàn tín dụng, …
Ngoài ra, cũng có nguyên nhân từ phía doanh nghiệp trong nhận thức và lựa chọn gói ưu đãi phù hợp.
Từ các phân tích này, nhóm nghiên cứu cho rằng, các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội đã đạt được những thành tựu không nhỏ, tuy nhiên vẫn cần có những điều chỉnh cả trong ngắn hạn và dài hạn theo 4 hướng chính sau.
Một là, các chính sách phải xây dựng trên nguyên tắc can thiệp có mục tiêu;
Hai là, không thực hiện các chính sách hỗ trợ hay can thiệp đại trà;
Ba là, các chính sách cần xác định rõ thời kỳ áp dụng để đảm bảo tính linh hoạt (nghĩa là có lộ trình khi nào áp dụng, kết thúc khi nào và kế tiếp chính sách nào);
Bốn là, ưu tiên hỗ trợ các nhóm ngành trong các lĩnh vực tạo bệ đỡ kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến các ngành khác (logistic, ngành nguyên liệu…).
Bảo Ngọc (Theo báo Đầu tư)
(vasep.com.vn) Ngành xuất khẩu thủy sản Ấn Độ, vốn chịu tác động nặng nề từ hàng rào thuế quan gay gắt của Mỹ, đang tìm thấy một “lối thoát” quan trọng và đầy tiềm năng nhờ sự hồi sinh của loài tôm sú. Nhiều hộ nuôi trước đây chủ yếu tập trung vào tôm thẻ chân trắng - mặt hàng xuất khẩu chủ lực - hiện đang nhanh chóng chuyển hướng sang nuôi giống tôm sú bản địa. Sự dịch chuyển này đang thổi một luồng sinh khí mới, mang lại kỳ vọng và động lực tăng trưởng cho toàn ngành.
(vasep.com.vn) Philippines đã thể hiện ý định xuất khẩu thêm các sản phẩm nông nghiệp sang Thổ Nhĩ Kỳ nhằm tăng cường thương mại song phương và mở rộng thị trường cho các sản phẩm có giá trị cao của mình.
(vasep.com.vn) Ba tổ chức đại diện ngành nuôi trồng thủy sản châu Âu đã kêu gọi Ủy ban châu Âu (EC) đưa ra định hướng chính trị mạnh mẽ hơn và thiết lập các mục tiêu sản xuất cụ thể, trong cuộc họp với Ủy viên Thủy sản và Đại dương Costas Kadis tại Brussels. Theo các hiệp hội, sản lượng nuôi trồng thủy sản của châu Âu đã “dậm chân tại chỗ” hoặc giảm suốt hơn 25 năm, trong khi sản xuất toàn cầu liên tục tăng.
(vasep.com.vn) Tổng thống Nga Vladimir Putin đã chỉ đạo chính phủ soạn thảo một loạt dự luật mới liên quan đến ngành hàng hải, trong đó gồm đề xuất tăng hạn ngạch đánh bắt cá minh thái tại vùng biển Tây Bering năm 2026, nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu và thiết lập cơ chế đấu giá hạn ngạch độc lập. Theo Điện Kremlin, các dự luật phải được trình trước ngày 25/12 và nhằm mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp mở rộng năng lực chế biến thủy sản trong nước, đồng thời thúc đẩy thay thế đội tàu cũ bằng tàu đóng mới.
(vasep.com.vn) Một sự chuyển dịch lớn đang diễn ra trong ngành thủy sản châu Á khi các quốc gia tăng tốc phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm bù đắp sự đình trệ kéo dài của khai thác biển. Đây là nhận định nổi bật trong báo cáo sơ bộ của Tổ chức Liên chính phủ Chương trình Vùng Vịnh Bengal (BOBP-IGO) công bố tại hội thảo khu vực diễn ra ngày thứ Ba ở Chennai.
(vasep.com.vn) Hội đồng Quản lý Ngư nghiệp Bắc Thái Bình Dương (NPFMC) đã hoàn tất kế hoạch hạn ngạch cá minh thái năm 2026 với điểm đáng chú ý là hạn ngạch tại Vịnh Alaska (GOA) giảm 25% xuống còn 134.118 tấn – mức thấp nhất trong gần một thập kỷ – trong khi hạn ngạch tại biển Bering (BSAI) được giữ nguyên ở mức 1,375 triệu tấn. Dù mức giảm ở Vịnh Alaska khá lớn, giới phân tích cho rằng tác động đến thị trường quốc tế sẽ hạn chế vì sản lượng tại khu vực này chỉ chiếm khoảng 10% tổng sản lượng của Mỹ và chủ yếu phục vụ thị trường nội địa.
(vasep.com.vn) Theo số liệu Hải quan Việt Nam, lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 11, xuất khẩu tôm đạt 4,3 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục giữ vai trò động lực tăng trưởng chính của toàn ngành thủy sản. Riêng tháng 11, kim ngạch đạt 393 triệu USD, tăng 14%.
Năm 2025, Hội chợ Thủy sản và Nghề cá Trung Quốc đã thu hút 1.562 đơn vị triển lãm đến từ 47 quốc gia với số lượng khách tham quan đạt kỷ lục 45.279 người đến từ 139 quốc gia. Tiếp nối thành công này, Hội chợ Thủy sản và Nghề cá Trung Quốc lần thứ 29 sẽ được tổ chức ngày 28 -30/10/2026 tại trung tâm triển lãm và Hội nghị Hongdao - Thành phố Thanh Đảo – Trung Quốc.
Thủ tướng yêu cầu tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định pháp luật, đảm bảo có công cụ pháp luật để xử lý đủ mạnh, đủ sức răn đe và xử lý dứt điểm tình trạng khai thác IUU...
(vasep.com.vn) Một báo cáo mới của Seafish cho thấy ngành thủy sản Vương quốc Anh đang thể hiện sức bật đáng kể trong năm 2024, bất chấp áp lực chi phí, thiếu lao động và các biến động thương mại. Xuất khẩu, nhập khẩu và tiêu dùng trong nước đều ghi nhận mức tăng trưởng tích cực.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn