Năm 2014 XK thủy sản đã tăng mạnh 16,5% nhờ nhu cầu NK thủy sản tăng vọt, nguồn nguyên liệu giảm, giá thủy sản NK tăng. Năm 2015, xu hướng XK đảo ngược khi các yếu tố cung cầu không còn thuận lợi như 2014. Nguồn cung tôm của các nước Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan hồi phục, giá NK trung bình giảm, áp lực cạnh tranh và đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác khiến nhu cầu NK của các thị trường giảm. Và mục tiêu 8 tỷ USD XK trong năm 2015 đã không thể đạt được. Kim ngạch XK thủy sản năm 2015 chỉ đạt gần 6,6 tỷ USD, giảm 16% so với năm 2014.
Các yếu tố bất lợi của năm 2015 có thể sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng đến XK thủy sản, ít nhất là trong nửa đầu năm 2016. Tuy nhiên, từ năm 2016, XK thủy sản Việt Nam sẽ được mở rộng cửa hơn nhờ việc Việt Nam tham gia một số hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
Cơ hội cho ngành thủy sản
Trên góc độ hội nhập và cạnh tranh, việc tham gia các FTA sẽ thúc đẩy sự “thay đổi” của ngành hàng, doanh nghiệp và cả công tác quản lý nhà nước. Sự thay đổi về chất bao gồm từ chất lượng hàng hóa, chất lượng dịch vụ, giá thành và “hình ảnh” nhằm tận dụng tốt các lợi thế và đáp ứng/vượt qua các thách thức mà bản chất các FTA đưa ra để cam kết & tuân thủ.
Đánh giá thực tế và khách quan, các FTA và TPP sẽ tạo ra cơ hội không nhỏ cho thủy sản Việt Nam. Từ 2016, việc tham gia cộng đồng ASEAN cũng như một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới sẽ được ký kết hoặc bắt đầu có hiệu lực sẽ có những tác động tích cực đến ngành hàng thủy sản trong việc gia tăng đầu tư, mở rộng thị phần, thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng hàm lượng chế biến và có nhiều cơ hội phát triển hơn. Ngoại trừ surimi, cá ngừ đóng hộp, thăn cá ngừ và cua là mấy mặt hàng hoặc phải có hạn ngạch (trong EVFTA), hoặc lộ trình giảm thuế dài 7-10 năm, còn lại hầu hết các mặt hàng đều sẽ có mức thuế bằng 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc chỉ lộ trình ngắn 3-5 năm.
(1) Cơ hội về thuế XNK từ TPP và các FTA với EU, Hàn Quốc & liên minh Á-Âu
Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm tới 64,4% tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam. Vì thế, sự tham gia của 4 đối tác kinh tế quan trọng trên vào các hiệp định thương mại sẽ đem lại những lợi ích, cơ hội lớn cho XK thủy sản Việt Nam trong thời gian tới. Các nước thành viên tham gia TPP sẽ được giảm hơn 90% các loại thuế XNK hàng hóa. Đó sẽ là tín hiệu tốt cho các DN XK thủy hải sản.
Hiệp định FTA Việt Nam – Hàn Quốc được ký kết giúp nâng khả năng cạnh tranh của Việt Nam với Trung Quốc, Thái lan và Ecuador (đang phải chịu thuế 20%). Hàn Quốc cam kết cấp hạn ngạch thuế quan 10.000 tấn tôm cho Việt Nam trong năm đầu tiên và đạt 15.000 tấn sau 5 năm với thuế suất NK 0%. Hạn ngạch này có hiệu lực vào đầu năm 2016. Trong khi, cả ASEAN cũng chỉ có chung hạn ngạch 5.000 tấn/năm dành cho 10 nước ASEAN. Cùng với 68 dòng sản phẩm thủy sản (chủ yếu là sản phẩm nguyên liệu chương 03), riêng mặt hàng tôm được cắt giảm thuế 7 dòng bao gồm cả tôm nguyên liệu chương 03 và tôm chế biến chương 16. Mặt hàng cá ngừ và thủy sản khác quy trình cắt giảm theo lộ trình 3-10 năm. Mặt hàng cá tra và mực bạch tuộc hầu như về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực.
Khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan (gồm Nga, Belarus và Kazakhstan) - Hiệp định VCUFTA - đi vào thực thi, thủy sản là nhóm hàng sẽ được hưởng ưu đãi thuế ngay lập tức từ khi Hiệp định có hiệu lực. Hầu hết các sản phẩm thủy sản đều được bỏ thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực. Việc khai thông hàng rào thuế quan và mở cửa thị trường Nga hơn sẽ là một yếu tố quan trọng đối với thủy sản Việt Nam vì Nga là đối tác truyền thống đối với sản phẩm cá tra Việt Nam. Trong khi Nga đang áp dụng lệnh cấm NK thực phẩm từ các nước phương Tây và một số nước khác, Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy mạnh XK thủy sản để bù đắp thiếu hụt tại thị trường này.
Với 11 nước thành viên tham gia TPP cùng Việt Nam là: Mỹ, Nhật Bản, Canada, Australia, Singapore, Mexico, Malaysia, Newzealand, Chile, Peru và Brunei đều là những đối tác quan trọng của thủy sản Việt Nam. Năm 2015, ước tính tổng giá trị XK thủy sản sang 11 thị trường này đạt gần khoảng 3 tỷ USD, chiếm 46% tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam.
Với Nhật Bản trong TPP, tất cả các SP tôm tươi/đông lạnh (HS03) sẽ có thuế 0% (trước: 1-10%) ngay khi Hiệp định có hiệu lực; tôm chế biến (HS16) bị loại trừ khỏi danh mục giảm thuế trong VJEPA. Lợi thế hơn Agentina, Ecuado và Ấn Độ khi 3 nước này không có FTA với Nhật Bản. Lợi thế cộng gộp TPP (12 nước) hơn các nước Thái Lan, Philipines và Indonesia dù 3 nước này đã có cả FTA song phương và đa phương ASEAN với Nhật Bản. Đây cũng là tín hiệu tích cực cho các DN XK hải sản, đặc biệt là DN XK cá ngừ sang Nhật Bản - thị trường đối tác lớn thứ 2 (sau Mỹ) trong 11 nước tham gia TPP bởi trong nhiều năm trước đây thuế suất của Việt Nam đang cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực ASEAN. Theo đúng lộ trình của TPP, Nhật Bản sẽ bãi bỏ thuế NK đối với sản phẩm cá ngừ và cá hồi và mở cửa cho các DN XK thuộc các nước thành viên tham gia tích cực hơn vào thị trường này.
Với Hoa kỳ trong TPP, các SP tôm tươi/đông lạnh (HS03) đã có thuế MFN 0%, SP tôm chế biến (HS16) có lộ trình 5 năm đưa thuế về 0%. Tuy nhiên, với TPP khi có hiệu lực thì tôm VN có lợi thế cạnh tranh hơn so với 6 nước cạnh tranh chính là Agentina, Ecuado, Ấn Độ, Thái Lan, Phillipines và Indonesia khi 6 nước này không có FTA với Hoa kỳ.
Việc ký các hiệp định FTA và TPP sẽ là cơ hội cho DN thủy sản Việt Nam mở rộng thị trường. Với năng lực hàng đầu thế giới hiện nay về công nghệ chế biến thủy sản của Việt Nam, DN có thể NK nguyên liệu từ các nước để gia công, chế biến XK sang EU và các nước tham gia TPP. Trung Quốc hiện đang đứng đầu về gia công thủy sản cho nhiều thị trường, nhưng hiện nay đang có xu hướng chuyển dịch từ Trung Quốc sang các nước khác có điều kiện sản xuất và lao động thuận lợi hơn. Vì vậy, đây cũng đồng thời là cơ hội dịch chuyển các nguồn nguyên liệu tốt và khách hàng tốt để các nhà kinh doanh và NK thủy sản từ Mỹ, Nhật Bản, EU lựa chọn Việt Nam để đầu tư.
Nguồn nguyên liệu hải sản trong nước đang ngày càng thiếu hụt, thuế NK giảm cũng sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các DN NK cá ngừ, mực, bạch tuộc Việt Nam khi NK từ các nước có năng lực khai thác tốt như Đài Loan, Nhật Bản, Mexico, Peru…
(2) Có lợi thế cạnh tranh hơn
Tham gia TPP và các FTA cũng là cơ hội tốt cho thủy sản Việt Nam tăng sức cạnh tranh nhờ sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất giá rẻ hơn như vận tải, thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu vật tư, trang thiết bị; là cơ hội tăng cường hợp tác liên doanh để nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến chuỗi sản xuất hàng giá trị gia tăng…
Đa số các nước đối thủ với Việt Nam đều chưa ký FTA với các nước đối tác trên nên đây sẽ là lợi thế cạnh tranh về mặt thuế NK cho thủy sản Việt Nam. VD: với thị trường Hàn Quốc, Việt Nam sẽ có lợi thế hơn so với đối thủ cạnh tranh trong ASEAN (Thái Lan, Indonesia, Malaysia) và Trung Quốc. Đối với Liên minh Kinh tế Á – Âu: Việt Nam là nước đầu tiên ký FTA nên có cơ hội cạnh tranh hơn các nước đối thủ.
Đối với thị trường Mỹ: Việt Nam đều có lợi thế cạnh tranh hơn khi Hiệp định TPP có hiệu lực vì các nước đối thủ như Ấn Độ, Ecuador, Philippine Thái Lan, Indonesia đều không tham gia hiệp định.
Đối với thị trường EU: các nước đối thủ như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Philippine đều chưa ký FTA song phương mà chỉ được hưởng ưu đãi thuế quan theo GSP. Việt Nam cũng như một số nước đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ, Thái Lan, Phillipines, Indonesia rất dễ đạt ngưỡng trưởng thành của GSP trong thời gian tới. Do vậy, khi FTA VN – EU có hiệu lực Việt Nam sẽ có lợi thế so với hầu hết các nước SXXK cạnh tranh.
Theo đánh giá của các chuyên gia, nhiều DN XK thủy sản Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ các FTA và TPP, tuy nhiên đó chỉ là một mặt của vấn đề. Để bước ra sân chơi lớn, để nắm được các cơ hội, các DN thủy sản phải nhanh nhạy với thị trường, nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm XK để không bị lúng túng trước các rào cản kỹ thuật khắt khe hơn, đồng thời sức cạnh tranh phải cao so với các nước cạnh tranh khác.
Thách thức với thương mại thủy sản khi hội nhập
Việc tham gia các hiệp định TPP và FTA mang lại cơ hội về thuế XNK nhưng cũng tạo ra những thách thức cho DN thủy sản liên quan đến các vấn đề như quy tắc xuất xứ, rào cản kỹ thuật, bảo hộ thương mại, sự gia tăng cạnh tranh và vấn đề lao động…
(1) Nguồn nguyên liệu không ổn định, giá thành sản xuất cao: Trong những năm tới, Việt Nam sẽ tận dụng được nhiều hơn về thuế quan sau khi ký các hiệp định FTA và TPP nếu chúng ta có nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng tốt. Vì hầu hết các dòng sản phẩm nguyên liệu (chương 03) được đưa về 0% ngay khi các hiệp định có hiệu lực, trong khi các dòng sản phẩm GTGT (chương 16) đều phải có lộ trình. Thực tế, nguồn nguyên liệu hiện nay không ổn định do đầu vào sản xuất nguyên liệu như: thức ăn, con giống, hóa chất, kháng sinh đều phụ thuộc phần lớn vào các nguồn cung nước ngoài, các cơ quan quản lý chưa hoặc không kiểm soát được, dẫn đến dịch bệnh, chất lượng kém. Chi phí sản xuất cao hơn so với các nước khác khiến cho giá thành sản phẩm và giá XK cao, làm giảm khả năng cạnh tranh.
(2) Quy tắc xuất xứ: Về cơ bản, chỉ những sản phẩm đáp ứng các quy tắc xuất xứ của một FTA mới có thể hưởng các mức thuế suất ưu đãi của FTA đó. Tuy nhiên, nhiều DN Việt Nam chưa năm bắt hoặc tận dụng được tốt các ưu đãi của FTA vì tính phức tạp và số lượng lớn quy tắc khiến các DN ngần ngại. Do vậy, thực tế đến nay, với nhiều lý do các DN Việt Nam mới tận dụng được 30% ưu đãi từ FTA. Vì vậy, DN Việt Nam có thể hưởng lợi nhiều hơn về thuế quan nếu được truyền thông và hướng dẫn nhiều hơn, sát sao hơn về áp dụng quy tắc xuất xứ trong hàng XK.
(3) Rào cản kỹ thuật và bảo hộ thương mại: Với việc tự do hóa thương mại, thủy sản Việt Nam sẽ có lợi về thuế quan, nhưng sẽ là đối tượng để các thị trường áp dụng các rào cản phi thuế quan nhằm bảo hộ ngành sản xuất nội địa hoặc hạn chế NK. Những rào cản như thuế CBPG, thuế chống trợ cấp, các quy định kiểm tra hóa chất, kháng sinh hay chương trình thanh tra riêng biệt (vd. Chương trình thanh tra cá da trơn của Mỹ…đang và sẽ được tăng cường áp dụng.
Bên cạnh những cơ hội và tích cực trong vấn đề thuế hoặc cộng gộp, các biện pháp SPS – TBT trong TPP/FTAs đặt ra những thách thức không nhỏ đối với ngành thủy sản. Những rào cản dưới dạng quy định kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ hay lao động rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam; Chẳng hạn, những quy định của TPP về quy tắc xuất xứ sẽ gây khó khăn cho một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như thủy – hải sản; còn về môi trường, có những yêu cầu cam kết cấm trợ cấp đánh bắt thủy hải sản có thể gây bất lợi đối với chính sách phát triển của ngành khai thác.
Do vậy, việc theo dõi và cung cấp thông tin, biến động trên thị trường là rất cần thiết, đồng thời cần có biện pháp xử lý nhanh trước những động thái tạo rào cản thương mại và kỹ thuật tại các thị trường.
(4) Chịu cạnh tranh mạnh mẽ: Tham gia vào các hiệp định thương mại đồng nghĩa với việc mở cửa và hội nhập hơn nữa vào tất cả các thị trường. Mặc dù, Chính sách của Nhà nước đã có nhiều thay đổi nhằm tạo cơ hội và điều kiện tối đa cho DN nhưng việc tái cơ cấu, cải cách thủ tục hành chính cần thời gian. Đây cũng chính là những rào cản không nhỏ đang giảm sức cạnh tranh của các DN XK thủy sản tại các thị trường NK lớn. Hiện nay, với những ưu đãi về thuế NK nguyên liệu, một số nước đối thủ cạnh canh như: Trung Quốc hay Thái Lan hay các nguồn cung lớn khác như: Bangladesh, Indonesia, Ấn Độ… đang khiến DN thủy sản Việt Nam khó cạnh tranh để có được thị phần tốt hơn.
(5) Thách thức về vấn đề lao động: Thủy sản là ngành cần lực lượng lao động lớn. Trong khi, thực trạng lao động trong ngành không ổn định. Các ràng buộc và quy định chặt chẽ về lao động từ FTA sẽ tăng thêm thách thức cho các DN chế biến thủy sản.
(6) Kiểm soát bảo tồn nguồn lợi – IUU (EU & Mỹ);
(7) Quy định về thủ tục hành chính (cấp phép XK lần đầu tại Trung Quốc; quy trình đánh giá công nhận DN XK của LB Nga ..v.v.)
(8) Truyền thông bôi nhọ tại các thị trường tiêu thụ thủy sản (đã xảy ra ở: Úc, Italia, Tây Ban Nha, Đức, Ai Cập ..vv.v.)
(Trích Bài tham luận của VASEP tại Hội nghị Hội nghị Tham tán Thương mại 2016)
Theo truyền thống hàng năm của Hiệp hội VASEP, nhằm ghi nhận và vinh danh các doanh nghiệp hội viên có thành tích cao trong xuất khẩu thủy sản tại mỗi Tỉnh, Ban Lãnh đạo Hiệp hội đã thông qua Bản tiêu chí xét chọn các DN thủy sản hội viên có kết quả XK thủy sản xuất sắc trong năm 2025, và tiến hành vinh danh trao kỷ niệm chương tại Lễ mừng Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam vượt 11 tỷ USD vào ngày 17/01/2026 tại KS Sheraton, Tp. Hồ Chí Minh.
(vasep.com.vn) Hệ thống giám sát ngành thủy sản của Cơ quan Liên bang Nga về Thủy sản (Rosrybolovstvo) cho biết tổng sản lượng khai thác của tất cả các đơn vị khai thác trong cả nước đã đạt 4,380,3 nghìn tấn, tiến sát mốc 4,4 triệu tấn cho năm nay. Trong đó, vùng biển Viễn Đông tiếp tục chiếm ưu thế vượt trội với 3,382,3 nghìn tấn.
(vasep.com.vn) Một nghiên cứu quốc tế mới cho thấy dấu chân môi trường của thức ăn thủy sản phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn gốc địa lý của nguyên liệu thay vì chỉ đơn thuần vào việc nguyên liệu có phải từ cá hay thực vật. Nghiên cứu sử dụng nuôi cá hồi Đại Tây Dương làm mô hình và so sánh hai loại thức ăn: một loại sử dụng nhiều bột cá và dầu cá, loại còn lại sử dụng thành phần thực vật. Kết quả cho thấy các chỉ số môi trường như phát thải khí nhà kính, suy thoái sinh cảnh, ô nhiễm dinh dưỡng và tiêu thụ nước thay đổi mạnh hơn theo vùng sản xuất nguyên liệu so với thành phần của chính thức ăn.
(vasep.com.vn) Theo số liệu Hải quan Việt Nam, lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 11, xuất khẩu tôm đạt 4,3 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục giữ vai trò động lực tăng trưởng chính của toàn ngành thủy sản. Riêng tháng 11, kim ngạch đạt 393 triệu USD, tăng 14%.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, các cơ quan, chủ thể có liên quan trong hệ thống chính trị đều phải phát huy cao độ trách nhiệm, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phải rà soát, kiểm tra lại các công việc; quyết liệt, kiên quyết tuyên chiến với khai thác IUU, tuyệt đối không hình thức, không đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; làm việc nào dứt việc đó.
(vasep.com.vn) Ngành khai thác và chế biến thủy sản Peru dành cho tiêu dùng trực tiếp (DHC) đang củng cố vị thế như một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế, khi tạo ra hơn 74.000 việc làm và hướng tới kim ngạch xuất khẩu cuối năm có thể vượt 2,13 tỷ USD. Thông tin được Bộ trưởng Bộ Sản xuất (PRODUCE) César Quispe Luján công bố trong chuyến làm việc tại vùng Piura, nơi ông nhấn mạnh rằng chỉ tính đến cuối quý III, xuất khẩu của phân ngành này đã vượt 1,5 tỷ USD.
(vasep.com.vn) Xuất khẩu cá ngừ Việt Nam T1–T11/2025 đạt 856 triệu USD, giảm 5% nhưng vẫn phủ tới hơn 110 thị trường. Top 5 thị trường gồm Mỹ, EU, Nga, Canada, Nhật Bản.
(vasep.com.vn) Các chuyên gia thức ăn thủy sản cảnh báo biến đổi khí hậu và các hạn chế quản lý nghề cá có thể làm suy giảm nghiêm trọng nguồn cá tạp dùng sản xuất bột cá và dầu cá – yếu tố thiết yếu trong nuôi các loài thủy sản có giá trị cao. Cảnh báo này được đưa ra trong nghiên cứu mới mang tên “Nguồn cung cá tạp bất ổn và nguy cơ thiếu hụt trong tương lai đối với ngành nuôi thủy sản toàn cầu”.
Phát triển giống tôm nước lợ đang trở thành nhiệm vụ chiến lược của ngành thủy sản trong bối cảnh thị trường thế giới cạnh tranh gay gắt. Việc chủ động nguồn giống chất lượng cao, giảm phụ thuộc nhập khẩu được xem là yếu tố then chốt giúp ngành tôm Việt Nam duy trì vị thế và tiến tới phát triển bền vững.
(vasep.com.vn) Thị trường cá minh thái Nga đang ghi nhận đà tăng giá mạnh, khi giá nguyên liệu H&G đã chạm mức cao nhất trong vòng 10 năm. Trong tuần 48 (24–30/11/2025), giá đạt 1.720 USD/tấn, tăng 10 USD so với tuần trước. Cuối tuần 47, một số giao dịch thậm chí tăng tới 50 USD/tấn so với mức tham chiếu, theo số liệu VASEP tổng hợp từ Synthesis.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn