Để đạt được tăng trưởng bền vững, các chính sách của Việt Nam cần đảm bảo tăng năng suất vượt, hoặc ít nhất là bằng với mức tăng tiền lương. Ưu tiên cho tăng năng suất là rất cần thiết cho sự tăng trưởng cao của Việt Nam trong vài thập kỷ qua. Vì thế, duy trì tăng năng suất là có lợi cho sản xuất, xuất khẩu, lao động, tiêu dùng trong nước cũng như toàn xã hội.
Trong vòng 5 năm qua, tăng trưởng tiền lương ở Việt Nam đã liên tục vượt qua tăng trưởng năng suất. Đây là xu hướng đáng lo ngại vì tăng trưởng GDP bền vững đòi hỏi mức tăng tiền lương phải khớp hoặc không vượt trội so với mức tăng năng suất.
Hiện nay, điều ngược lại đang xảy ra. Nếu xu hướng này không bị đảo ngược, nền kinh tế có nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh trong mối quan hệ với các nước trong khu vực và toàn cầu.
Chúng tôi hết lòng ủng hộ những lợi ích dành cho xã hội bằng cách tăng lương, nhưng mức tăng này phải phù hợp với các quy định lao động có trách nhiệm và cân bằng.
Một trong những yếu tố quan trọng mà các công ty FDI nhìn vào khi lựa chọn đầu tư vào một quốc gia là Bộ luật Lao động của quốc gia đó. Đó cũng là lý do tại sao một số quy định hiện hành và được đề xuất của Bộ Luật Lao động Việt Nam là vấn đề cần quan tâm.
Hai vấn đề trọng tâm
Ở bất kỳ quốc gia nào, Luật lao động đại diện cho một trong những yếu tố có ảnh hưởng nhất trong việc xác định tăng năng suất và tăng tiền lương. Việt Nam cũng như vậy. Bộ Luật Lao động có tác động đáng kể đến môi trường kinh doanh và quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Khi so sánh với các tiêu chuẩn khu vực, một số điều khoản lao động chính của Việt Nam không cạnh tranh, đặc biệt là giới hạn về tiền làm thêm giờ, số giờ làm thêm giờ hàng năm,…
Số giờ làm thêm một năm ở Trung Quốc là 400 giờ, trong khi ở Thái Lan và Malaysia là 1.800 giờ. Hiện tại, số giờ làm thêm ở Việt Nam chỉ ở mức 200 giờ - đây là một sự khác biệt rất lớn. Giới hạn 200 giờ này là một bất lợi đáng kể cho các doanh nghiệp vì nó tước đi một bộ đệm để xử lý các cơ hội. Quy định đó cũng đặt Việt Nam vào thế bất lợi cạnh tranh so với các nước láng giềng.
Do đó, chúng tôi khuyến nghị tăng giới hạn giờ làm thêm hàng năm từ 200 đến 300 giờ đối với điều kiện làm việc bình thường và 400 giờ trong trường hợp đặc biệt hoặc trong một số ngành công nghiệp nhất định. Bên cạnh đó, cần hủy bỏ giới hạn hàng tuần và hàng tháng và loại bỏ yêu cầu đối với người sử dụng lao động cần có giấy phép chấp thuận của cơ quan lao động khi nhân viên làm việc tới 400 giờ làm thêm mỗi năm trong những trường hợp đặc biệt hoặc trong một số ngành công nghiệp.
Liên quan đến tiền công làm thêm giờ, Việt Nam cũng cao hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực. Để so sánh, tiền công làm thêm giờ ở Philippines là 125%, trong khi tiền công làm thêm ở Việt Nam là 150% so với tiền công trong ngày làm việc bình thường, 200% trong các ngày nghỉ hàng tuần và thậm chí 300% vào các ngày nghỉ lễ. Do đó, chúng tôi đề nghị nên giữ lại hoặc thậm chí giảm tiền công lao động ngoài giờ hiện tại.
Một thập kỷ trước, tiền lương hàng tháng của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Nhìn vào tình hình hiện nay, tiền lương của Việt Nam có thể so sánh với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, giới hạn giờ làm thêm của Việt Nam vẫn thấp hơn đáng kể và tiền công làm thêm vẫn cao hơn nhiều. Kết quả của việc này là tăng trưởng tiền lương hiện đang vượt xa mức tăng năng suất. Điều này góp phần làm giảm năng suất trên mỗi đô la mà Việt Nam hiện đang phải đối mặt.
Từ góc độ khu vực, sự sụt giảm năng suất trên mỗi đô la đang gây hại cho khả năng cạnh tranh tương đối của Việt Nam cũng như sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tất cả các yếu tố của Bộ Luật Lao động mà tôi đã đề cập cho đến nay, tiền công làm thêm giờ là vấn đề khi nhìn vào bối cảnh tăng trưởng kinh tế nói chung của Việt Nam. Xu hướng tăng trưởng tiền lương và thiếu lao động, thể hiện một mối đe dọa hiện hữu đối với năng suất và khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Những kiến nghị bổ sung
Tuy nhiên, đây không phải là những mối quan tâm duy nhất và để kích thích hơn nữa năng suất và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, chúng tôi cũng đề xuất những sửa đổi sau đây đối với Bộ Luật Lao động:
Thứ nhất, cung cấp các cơ chế linh hoạt hơn để chấm dứt hợp đồng lao động với nhân viên và cung cấp cơ chế thực thi tốt hơn các quy tắc ứng xử và tuân thủ tại nơi làm việc. Bộ luật Lao động hiện nay là một trong những quy định cứng nhắc và nghiêm ngặt nhất trong khu vực liên quan đến việc sa thải nhân viên.
Thứ hai, xóa bỏ các hạn chế về ủy quyền hợp đồng lao động, giữ lại các quy định trong phụ lục hợp đồng lao động như được nêu trong Bộ Luật Lao động 2012, tăng thời gian thử việc đối với các công việc cơ bản lên 15 ngày và bãi bỏ thời gian đào tạo nghề tối đa tại các doanh nghiệp.
Thứ ba, đề xuất các quy chế bổ sung cho kỷ luật lao động nhằm cung cấp cho người sử dụng lao động những căn cứ pháp lý để giải quyết tình trạng những người lao động và các nhà lãnh đạo đình công tham gia vào các cuộc đình công bất hợp pháp.
Thứ tư, tăng thời hạn giấy phép lao động cho người nước ngoài từ hai đến ba năm và không đặt giới hạn số lượng gia hạn có thể được áp dụng theo giấy phép lao động nước ngoài.
Thứ năm, hủy bỏ các điều khoản coi tổng giám đốc và giám đốc là nhân viên thường xuyên.
Cuối cùng, chúng tôi đề nghị Bộ Luật Lao động sửa đổi đưa ra các quy định phù hợp và cụ thể để giải quyết thỏa đáng hành vi quấy rối và phân biệt đối xử tại nơi làm việc, với các quy định quy định chủ lao động có thẩm quyền áp dụng các biện pháp kỷ luật đối với nhân viên tham gia trong hành vi như vậy.
Những gì chúng tôi đang đề xuất không phải là một cuộc cải tổ triệt để, chúng tôi chỉ đơn giản đề xuất rằng Việt Nam áp dụng các tiêu chuẩn đã được áp dụng ở các nước khác trong khu vực. Ít nhất, Việt Nam nên tránh duy trì hoặc làm lệch bất kỳ sự khác biệt nào so với các quy tắc khu vực trong các lĩnh vực này nếu muốn duy trì lợi thế cạnh tranh của mình.
Để phù hợp với các chính sách lao động của khu vực, Việt Nam có thể tiếp tục tận dụng sức mạnh công nghiệp của mình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam cần chuẩn hóa các khía cạnh không cạnh tranh của luật lao động theo các quy tắc khu vực, không chỉ để duy trì khả năng cạnh tranh, mà còn để giải quyết khoảng cách liên tục giữa tiền lương và tăng năng suất. Như tôi đã chỉ ra, khoảng cách này không thể được phép tiếp tục nếu Việt Nam duy trì năng suất cạnh tranh bằng đồng đô la, điều này đã thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và lợi nhuận của Việt Nam.
Cơ sở của tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 25 năm qua là năng suất cạnh tranh của lực lượng lao động và xuất khẩu. Do đó, chúng tôi rất mong Việt Nam không bỏ qua tầm quan trọng của quản lý năng suất ở cấp quốc gia để đảm bảo tăng trưởng bền vững.
Trên cơ sở những thành tựu nổi bật của quan hệ song phương trên tất cả các lĩnh vực trong 75 năm qua, với tiềm năng hợp tác rộng mở và sự tin tưởng vững chắc vào tương lai tốt đẹp của quan hệ Việt Nam - Czech, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính và Thủ tướng Chính phủ Czech Petr Fiala đã nhất trí ra Tuyên bố chung nâng cấp quan hệ Việt Nam - Czech lên “Đối tác Chiến lược”, nhân chuyến thăm chính thức Czech của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính từ ngày 18 - 20/01/2025.
(vasep.com.vn) Năm 2024, xuất khẩu hải sản Việt Nam cán đích với kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2023. XK các nhóm mặt hàng đều tăng hoặc ở mức tương đương so với năm 2023.
(vasep.com.vn) Mặc dù nguồn vốn đầu tư mạo hiểm (VC) cho các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản giảm mạnh 28% vào năm 2024, ngành này vẫn duy trì tín hiệu tích cực ở một số phân khúc. Theo báo cáo của FAO, sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu đã vượt qua đánh bắt tự nhiên, trở thành nguồn cung chính các loài thủy sản. Tuy nhiên, đầu tư vào đổi mới trong lĩnh vực này lại giảm sút.
(vasep.com.vn) Trung Quốc đang thắt chặt các quy định đối với ngành nuôi cá rô phi, trong đó Quảng Đông trở thành trung tâm sản xuất lớn thứ hai sau Hải Nam thực hiện các quy định xuất khẩu chặt chẽ hơn vào năm 2025.
(vasep.com.vn) EU là một trong những thị trường tiêu thụ nhiều nhất cá tra Việt Nam trong vòng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, trong 5 năm trở lại đây, số liệu của Hải quan Việt Nam cho thấy EU đang giảm dần việc NK cá tra từ Việt Nam.
(vasep.com.vn) Tập đoàn hải sản khổng lồ của Nhật Bản Nissui Corp. sẽ cải tiến bao bì của các sản phẩm surimi cua cắt miếng nhỏ đã đứng vững trên thị trường nhiều năm của mình, loại bỏ khay nhựa như một phần trong nỗ lực giảm thiểu việc sử dụng nhựa.
(vasep.com.vn) Một nghiên cứu của Hiệp hội Thủy sản Toàn Nga (VARPE) cho thấy Nga đang bán nhiều cua hơn trong nước sau khi mất thị trường tại Hoa Kỳ
(vasep.com.vn) Xuất khẩu tôm năm 2024 đạt 3,9 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2023. Nhìn lại năm 2024, ngành tôm đã kiên trì và nỗ lực vượt qua thử thách, khẳng định vị thế vững chắc trong xuất khẩu.
Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt thoả thuận trong vụ việc giải quyết tranh chấp về thuế chống bán phá giá cá tra, basa tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu các bộ ngành, địa phương kiên quyết xử lý nghiêm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ được giao, tiếp tay, dung túng cho hành vi khai thác IUU, ảnh hưởng đến nỗ lực chung gỡ cảnh báo thẻ vàng EC. Đồng thời, chuẩn bị cho đợt kiểm tra của EC trong quý 2/2025...
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn