Phóng viên (PV): Thưa Bộ trưởng, năm 2018, xuất khẩu NLTS nước ta tiếp tục tăng trưởng mạnh. Đề nghị Bộ trưởng cho biết cụ thể về kết quả này ?
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: KNXK NLTS 11 tháng năm 2018 đạt 36,25 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2018. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tiếp tục tăng trưởng mạnh, như lúa gạo tăng 17,7%, gỗ và sản phẩm gỗ tăng 17,5%, rau quả tăng 11,6%, thủy sản tăng 6,8%. Dự kiến KNXK cả năm 2018 đạt khoảng 40 tỷ USD, vượt kế hoạch Chính phủ giao và cơ bản đạt kế hoạch Bộ NN&PTNT đề ra.
Trước tiên cần khẳng định, có được thành tích trên là nhờ cả hệ thống chính trị của chúng ta cùng vào cuộc, từ người nông dân tới doanh nghiệp, các hợp tác xã... Đặc biệt, phải kể đến sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp. Trong nhiều cuộc hội đàm, hội kiến, tiếp xúc với phía nước ngoài, các đồng chí lãnh đạo đều giới thiệu, đặt vấn đề với bạn về nông sản của Việt Nam và rất quan tâm quảng bá nông sản Việt Nam với đối tác nước ngoài. Chúng ta đã chủ động từng bước nâng cao chất lượng nhiều mặt hàng nông sản theo các tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng đã tích cực, chủ động trao đổi, đàm phán để tháo gỡ các rào cản kỹ thuật lẫn thương mại đối với các thị trường lớn là EU, Mỹ, Trung Quốc.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường
PV: Vậy mục tiêu cụ thể giai đoạn tới của tái cơ cấu nông nghiệp là gì, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Thời gian tới, ngành cần tiếp tục đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất gắn với chuỗi giá trị, theo các vùng sản xuất hàng hóa tập trung; tập trung khuyến khích chế biến sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa. Trong đó, cần tổ chức, xây dựng được các chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm với nòng cốt, trung tâm là các chủ thể: Nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh việc xây dựng, quảng bá thương hiệu từng loại nông sản hàng hóa. Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu ngành giai đoạn tới là xây dựng nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới phồn vinh, văn minh; cải thiện nhanh hơn đời sống của nông dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
PV: Thưa Bộ trưởng, ngành nông nghiệp đã và sẽ có những giải pháp nào để khắc phục những hạn chế, yếu kém?
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Để khắc phục những hạn chế, bất cập, theo tôi cần có sự tham gia tích cực của các tác nhân trong chuỗi liên kết, đặc biệt là vai trò của doanh nghiệp và các HTX. Doanh nghiệp và HTX mới có thể giúp nông dân sản xuất, chế biến tập trung, quy mô lớn theo yêu cầu của thị trường. Thời gian qua, công nghiệp chế biến được đầu tư theo hướng phát triển chế biến sâu, ứng dụng công nghệ cao để gia tăng giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong giai đoạn 2017-2018, có 17 nhà máy chế biến lớn được khởi công và khánh thành với tổng mức đầu tư khoảng 10.040 tỷ đồng; có những doanh nghiệp đầu tư vốn lớn, công nghệ cao ngang tầm khu vực và quốc tế.
Đồng thời, Bộ NN&PTNT đã chủ trì hoặc phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các bộ, ngành khác, tham mưu, kiến nghị với Chính phủ sửa đổi hàng loạt cơ chế, chính sách phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, để vừa khắc phục được những hạn chế, bất cập, vừa có thêm động lực, “cú hích” để tăng trưởng, phát triển trong thời gian tới.
PV: Cơ hội và thách thức của ngành nông nghiệp Việt Nam khi tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Trước hết, cần phải khẳng định, các hiệp định trên đem đến cơ hội mở rộng thị trường cho xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của Việt Nam hiện nay, như: Thủy sản, lâm sản, đồ gỗ, rau quả, trái cây và các nông sản khác (gạo, cà phê, cao su...). Đối với lĩnh vực chăn nuôi, hiện chúng ta đã xuất khẩu được sản phẩm thịt gà qua chế biến vào thị trường Nhật Bản. Nếu chúng ta có những biện pháp thích hợp, đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ, chọn những sản phẩm riêng biệt thì có thể cạnh tranh được, thậm chí có thể xuất khẩu sang các thị trường khó tính, như: EU, Hoa Kỳ. Trước đây, thế giới vẫn cho rằng Việt Nam không có khả năng sản xuất sữa và chủ yếu phụ thuộc vào nguồn sữa nhập khẩu. Đến nay, với sự đầu tư bài bản, đúng hướng, ứng dụng khoa học-công nghệ tốt của Tập đoàn TH True Milk, Vinamilk, sản xuất sữa trong nước đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước và tiến tới xuất khẩu trong thời gian tới.
Tuy nhiên, có thể dự báo một số thách thức lớn đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam là: Các nước tham gia có thể giảm thuế suất nhưng nâng cao các hàng rào phi thuế quan và có sự kiểm soát nghiêm ngặt hơn; sản phẩm chăn nuôi sẽ bị cạnh tranh gay gắt hơn; chất lượng, giá thành sản phẩm NLTS sẽ là các yếu tố cạnh tranh tiếp theo. Thách thức từ các thị trường này đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng để từ đó sản xuất ra các mặt hàng nông sản phù hợp, đặc biệt phải bảo đảm các yếu tố: Giá cả cạnh tranh, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, nông sản sạch, sản xuất hữu cơ.
PV: Thưa Bộ trưởng, trong năm 2019, những thách thức lớn nhất đối với ngành nông nghiệp và mục tiêu cụ thể của ngành là gì?
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường: Thách thức đối với ngành nông nghiệp năm 2019 và cả những năm tiếp theo chính là ở việc chúng ta đặt mục tiêu rất cao, chẳng hạn đạt KNXK đồ gỗ và lâm sản 12-13 tỷ USD hay thủy sản ở mức 10 tỷ USD vào năm 2020 sẽ không đơn giản. Mục tiêu chủ yếu của ngành năm 2019 là tốc độ tăng trưởng khoảng 2,9-3,1%, KNXK NLTS đạt khoảng 42-43 tỷ USD. Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, với 12-13 hiệp định thương mại tự do mà chúng ta đã ký kết tham gia thì cơ hội cho ngành nông nghiệp nhiều, mà thách thức cũng lắm. Nếu chúng ta chủ quan “ngủ quên trên vòng nguyệt quế” hôm nay, chúng ta sẽ thua trong tương lai, thậm chí thua ngay trên “sân nhà”.
Để đạt được mục tiêu trên, ngành nông nghiệp sẽ phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, từng ngành hàng, trong đó phải tập trung vào việc đẩy mạnh chế biến sâu để gia tăng giá trị. Lấy ví dụ con tôm, phụ phẩm của nó là vỏ tôm, nếu được đầu tư chế biến và tìm kiếm đầu ra tốt thì vỏ tôm có thể làm nguyên liệu đầu vào của mỹ phẩm, dược liệu; hay như con cá tra, phụ phẩm của nó có thể dùng là dầu cá, collagen; trái cây không chỉ xuất khẩu tươi mà còn chế biến nước ép. Thị trường thương mại trái cây toàn cầu hiện khoảng 240 tỷ USD/năm, nước ép, nước đóng hộp khoảng 270 tỷ USD/năm. Trong khi đó, chúng ta mới xuất khẩu chiếm khoảng 1,5% tổng giá trị của mặt hàng này trên thế giới. Do đó còn nhiều dư địa để chúng ta phát triển mặt hàng này. Mặt hàng gạo thì tập trung vào chất lượng, thương hiệu, hiệu quả kinh tế cao phải tập trung vào “chất” chứ không chỉ tập trung vào “lượng” như trước đây. Các mặt hàng NLTS khác cũng theo hướng này. Nghĩa là “xuất” ít mà “thu” về nhiều. Cùng với đó, chúng ta phải tiếp tục xây dựng thương hiệu cho từng loại nông sản và mở rộng thị trường.
PV: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
(vasep.com.vn) Tháng 10/2024, XK tôm Việt Nam đạt 394 triệu USD, tăng 24%. Lũy kế 10 tháng đầu năm nay, XK tôm mang về 3,2 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái. XK sang tất cả các các thị trường tiêu thụ chính đều ghi nhận tăng trưởng 2 con số trong tháng 10 năm nay.
Trong 30 năm, cá tra Việt Nam đã có mặt ở 150 thị trường cùng nhiều loại cá thịt trắng khác nhờ vào nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra Việt Nam.
(vasep.com.vn) Xuất khẩu thủy sản nuôi trồng của Brazil đã đạt đến mức cao mới trong quý 3 năm 2024, với khối lượng xuất khẩu tăng 158% và giá trị tăng 174% so với cùng kỳ năm trước, đạt 4.031 tấn với giá trị 18,5 triệu USD.
(vasep.com.vn) Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Campuchia (MAFF) xác nhận rằng Cục Thủy sản (FA) và lực lượng đặc nhiệm đang tăng cường các biện pháp giải quyết tình trạng đánh bắt bất hợp pháp trên toàn quốc trong mùa cấm đánh bắt để bảo tồn nguồn lợi cá.
(vasep.com.vn) Một báo cáo mới từ Pew Charitable Trusts cho rằng cần có phương pháp tiếp cận đa loài trong quản lý nguồn cá để giải quyết tình trạng suy giảm nguồn cá ở Bắc Đại Tây Dương.
(vasep.com.vn) Nhập khẩu cá rô phi của Hoa Kỳ tiếp tục giảm trong tháng 9, với mức giảm đáng kể về khối lượng và giá, chủ yếu là đối với phi lê tươi.
(vasep.com.vn) Thông báo của Phái đoàn EU tại Senegal nêu rõ mối lo này xuất phát từ thiếu sót trong hệ thống giám sát đối với cả tàu cá trong nước và quốc tế hoạt động từ cảng Dakar.
(vasep.com.vn) Tổ chức Pew Charitable Trusts gần đây đã xuất bản một bài báo nêu bật phạm vi quốc tế của Trung tâm giám sát, kiểm soát và giám sát Khu bảo tồn biển Cocos của Costa Rica (MCCA). Trung tâm này, nơi bảo vệ Di sản thế giới của UNESCO, đi đầu trong cuộc chiến chống đánh bắt bất hợp pháp tại một trong những khu bảo tồn biển quan trọng nhất thế giới.
(vasep.com.vn) Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, XK cá ngừ của Việt Nam trong tháng 10 đạt gần 93 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2023. Tính luỹ kế 10 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch XK đạt hơn 821 triệu USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2023.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn