Doanh thu ngoài thuế này bao gồm phí chứng nhận, khai thác tài nguyên, dịch vụ cảng, kiểm tra chất lượng và đào tạo, v.v. Bộ Thủy sản Indonesia vào năm 2021 đã ban hành một nghị định cho phép những người điều hành tàu cá có tổng trọng tải trên 60 tấn trả một lần tất cả các khoản thu ngoài thuế sau khi họ cập cảng đánh bắt. Trước đây, họ phải nộp tiền trước khi ra khơi, khi xin giấy phép kinh doanh và đánh bắt.
Bộ cho biết lý do chính của sự thay đổi là để tăng thu nhập của nhà nước từ ngành đánh bắt hải sản, đồng thời giải quyết các hành vi bất hợp pháp về giảm kích cỡ tàu thuyền và đánh bắt quá mức.
Sakti Wahyu Trenggono, Bộ trưởng Bộ Thủy sản, cho biết trong một cuộc họp báo ở Jakarta vào ngày 28/2: “Mục tiêu cuối cùng là Indonesia phải có hệ thống quản lý nghề cá được quản lý tốt, báo cáo và tuân thủ bởi tất cả các bên liên quan.
Mặc dù chương trình phí mới không nhất thiết được thiết kế để chống lại hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), nhưng nó sẽ nhắm mục tiêu tăng thu nhập của nhà nước mà sau đó có thể được phân bổ để cải thiện cơ sở hạ tầng nghề cá và giúp thúc đẩy phúc lợi của ngư dân.
Chính phủ dự kiến sẽ tăng 1,63 tỷ rupiah (107.000 USD) doanh thu nhà nước ngoài thuế từ ngành đánh bắt thủy sản vào năm 2023
Chính phủ dự kiến sẽ tăng 1,63 tỷ rupiah (107.000 USD) doanh thu nhà nước ngoài thuế từ ngành đánh bắt thủy sản vào năm 2023 và lên tới 1,7 tỷ rupiah (111.000 USD) vào năm 2024, theo Bộ Thủy sản. Dữ liệu của Bộ cho thấy tổng sản lượng đánh bắt trung bình mỗi năm là 7 triệu tấn mỗi năm trong 5 năm qua, trị giá lên tới 140 nghìn tỷ rupiah (9,2 tỷ USD).
Tuy nhiên, một số nhà quan sát biển cho rằng chính sách này sẽ đóng góp không đáng kể vào việc tăng thu ngân sách nhà nước, trong khi có khả năng nới rộng kẽ hở để ngư dân khai báo sai sản lượng đánh bắt thực tế của họ.
Lỗ hổng của chính sách là dựa vào sự tự khai báo của chủ tàu đánh cá, họ sẽ báo cáo khối lượng đánh bắt tại cảng. Điều này có thể dẫn đến tình trạng báo cáo thiếu sản lượng khai thác nhằm giảm doanh thu ngoài thuế phải nộp. Chính sách này cũng ưu tiên xử phạt hành chính, chẳng hạn như phạt tiền và thu hồi giấy phép đối với các vi phạm, trong khi bảo lưu hình phạt hình sự như là phương sách cuối cùng.
“Thực thi pháp luật nghiêm ngặt phải được đặt lên hàng đầu trong chính sách này, vì nếu không, nó sẽ dễ dàng tạo cơ hội cho mọi người thực hiện tội phạm thủy sản, đặc biệt là đánh bắt IUU, đặc biệt là với các biện pháp trừng phạt nhẹ nhàng như vậy,” Parid Ridwanuddin, giám đốc chiến dịch ven biển và biển tại Walhi, tổ chức NGO vận động môi trường lớn nhất ở Indonesia.
Các quy định năm 2021 không nêu rõ ràng trách nhiệm quản lý sinh thái đối với các doanh nghiệp đánh bắt cá, chính phủ sẽ phải chịu chi phí cho các biện pháp phục hồi sau này.
Kế hoạch mới hiện đang được triển khai tại 77 cảng cá, chủ yếu ở miền đông Indonesia. Bộ cho biết họ hy vọng sẽ dần dần áp dụng nó trên toàn quốc trong vài năm tới, đồng thời cho biết thêm rằng 576 doanh nghiệp đánh cá đã bày tỏ sự sẵn sàng áp dụng chương trình phí mới.
Parid cho biết vẫn còn nhiều việc phải làm để chính sách này hoạt động hiệu quả và hiệu quả. Điều này bao gồm việc đưa ra các biện pháp nghiêm ngặt nhất để giám sát và thực thi pháp luật tại các cảng cập bến và trên biển.
Nghề đánh bắt cá tự nhiên của Indonesia sử dụng khoảng 2,7 triệu lao động; phần lớn ngư dân Indonesia là những người khai thác quy mô nhỏ.
Ông nói thêm rằng chế độ thực thi pháp luật hiện hành ưu tiên xử phạt hành chính hơn là xử phạt hình sự là hệ quả của Luật tạo việc làm năm 2020 gây nhiều tranh cãi, dẫn đến việc bãi bỏ quy định sâu rộng trong nhiều ngành công nghiệp. Parid cho biết ông đã xem xét hơn 100 vụ kết án tội phạm thủy sản trong năm 2019 và thấy rằng các biện pháp trừng phạt hành chính và tội phạm trung bình yếu hơn nhiều so với các quy định của luật trước đó.
Mức độ tuân thủ ở Indonesia còn rất thấp. Ông cho biết thêm Bộ của ông đang tăng cường các biện pháp an ninh bằng cách sử dụng công nghệ giám sát tàu qua vệ tinh và tăng cường các nỗ lực tuần tra trên biển. Các cuộc tuần tra thường xuyên rất tốn kém và hạn chế do thiếu cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, đặc biệt là đối với một quần đảo rộng lớn như Indonesia với hàng nghìn hòn đảo. Bộ thủy sản cho biết lý tưởng nhất là họ cần ít nhất 78 chiếc thuyền, hoặc nhiều hơn gấp đôi số thuyền hiện đang hoạt động, để giám sát vùng biển của đất nước nhằm phát hiện những ngư dân đánh cá bất hợp pháp và phá hoại, cả trong và ngoài nước. Các cơ quan chính phủ khác tuần tra vùng biển của Indonesia, không nhất thiết phải xử lý vi phạm đánh bắt cá, bao gồm Hải quân, Cảnh sát biển và Cảnh sát Quốc gia.
Theo một báo cáo của Hiệp hội Ngư dân Truyền thống Indonesia (KNTI), việc cắt giảm ngân sách tại Bộ Thủy sản trong những năm gần đây cũng dẫn đến việc giảm tổng thời gian tuần tra. Các cuộc tuần tra của Bộ đã giảm xuống tổng cộng 84 ngày vào năm 2019, từ 270 ngày vào năm 2015.
Nghề đánh bắt cá tự nhiên của Indonesia sử dụng khoảng 2,7 triệu lao động; phần lớn ngư dân Indonesia là những người khai thác quy mô nhỏ, với các tàu nhỏ hơn 10 tổng trọng tải. Theo kịch bản kinh doanh thông thường, đánh bắt thủy sản dự kiến sẽ tăng với tốc độ hàng năm là 2,1% từ năm 2012 đến năm 2030.
Dữ liệu của chính phủ từ quý 3 năm 2022 cho thấy ngành thủy sản đóng góp 2,5% vào GDP của đất nước, tương đương giá trị gần 6 nghìn tỷ rupiah (393 triệu USD). Tuy nhiên, nguồn thu ngoài thuế từ ngành thủy sản trong những năm gần đây không đạt chỉ tiêu của Chính phủ. Năm ngoái, Bộ Thủy sản đã ghi nhận 1,2 nghìn tỷ rupiah (78,5 triệu USD) doanh thu ngoài thuế, thấp hơn so với mục tiêu 1,6 nghìn tỷ rupiah (104,7 triệu USD).
Cơ chế phí mới là một trong những bước đầu tiên hướng tới việc thực hiện chính sách quản lý nghề cá dựa trên hạn ngạch do Bộ đề xuất. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát biển đã lên tiếng phản đối chiến lược mới, cho rằng nó đe dọa tính bền vững của nguồn cá nước này, nhất là khi hơn một nửa khu vực quản lý nghề cá đã được khai thác hết, cho thấy cần phải giám sát chặt chẽ hơn.
Thùy Linh (Theo Mongabay)
(vasep.com.vn) Tại cuộc họp thường niên của Ủy ban Quản lý Thủy sản Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC), diễn ra từ ngày 28 tháng 11 đến 3 tháng 12 năm 2024 tại Fiji, các nhà quản lý thủy sản sẽ bàn về việc tăng cường giám sát và áp dụng các biện pháp bảo tồn để duy trì tính bền vững cho ngành thủy sản cá ngừ, ngành có giá trị và sản lượng lớn nhất thế giới. Khu vực Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPO) chiếm 51% sản lượng cá ngừ toàn cầu, và WCPFC đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý nguồn lợi thủy sản tại khu vực này.
(vasep.com.vn) Tháng 10, giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam đạt mức cao nhất kể từ đầu năm 2024. Tính luỹ kế 10 tháng đầu năm 2024, giá trị XK cá ngừ tăng 19%, đạt 821 triệu USD. XK cá ngừ sang các thị trường chính hiện đều tăng so với cùng kỳ.
(vasep.com.vn) Các DN XK cá rô phi Trung Quốc khẳng định sẽ quyết tâm bám trụ ở thị trường Mỹ bất chấp mối đe dọa áp thuế 60% từ Chính quyền Trump. Tuy nhiên, điều này có dễ dàng khi ngành này đang chịu áp lực ngày càng lớn do căng thẳng thương mại kéo dài và thuế NK sẽ tác động đến hàng loạt các yếu tố có ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng?
(vasep.com.vn) Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đang kêu gọi các nhà cung cấp tham gia đấu thầu hơn một triệu pound hải sản Thái Bình Dương khai thác tự nhiên cho các chương trình thực phẩm trong nước năm 2025.
(vasep.com.vn) Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, kim ngạch XK cá tra tháng 10/2024 đạt gần 202 triệu USD, tăng 17% so với tháng 10/2023. Lũy kế XK cá tra 10 tháng đầu năm nay sang các thị trường đạt 1,7 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái.
(vasep.com.vn) Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tiếp tục tăng trong tháng 10/2024. Nhờ đó, tính đến hết tháng 10/2024 giá trị xuất khẩu tăng 11% so với cùng kỳ, đạt hơn 8,2 tỷ USD. Xuất khẩu các nhóm sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đều tăng so với cùng kỳ, trừ mực và bạch tuộc.
(vasep.com.vn) Chiến thắng của Donald Trump trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ đang tạo nên làn sóng lan rộng trong ngành vận tải container và được coi là một trở ngại tiềm tàng đối với thương mại quốc tế.
Ngày 14/11, tại TP. Hồ Chí Minh đã diễn ra Tọa đàm giữa các Trưởng Cơ quan đại diện (CQĐD) Việt Nam ở nước ngoài nhiệm kỳ 2024-2027 với lãnh đạo các hiệp hội, doanh nghiệp khu vực phía Nam.
(vasep.com.vn) Trung Đông là một thị trường tiềm năng đối với ngành xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. XK thủy sản sang khối thị trường này liên tục gia tăng trong những năm gần đây với kim ngạch từ 200 – 320 triệu USD. Ước tính năm 2024, XK thủy sản Việt Nam sang Trung Đông đạt 330 triệu USD, tăng 6% so với năm 2023.
(vasep.com.vn) Tháng 10/2024, XK tôm Việt Nam đạt 394 triệu USD, tăng 24%. Lũy kế 10 tháng đầu năm nay, XK tôm mang về 3,2 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái. XK sang tất cả các các thị trường tiêu thụ chính đều ghi nhận tăng trưởng 2 con số trong tháng 10 năm nay.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn