Điều quan trọng cần hiểu là tác động của lạm phát ở cấp độ nông nghiệp đan xen chặt chẽ với các tác động của các chính sách khác nhau của chính phủ bao gồm cả tài khóa (tức là chi tiêu, thuế) và tiền tệ (lãi suất do các ngân hàng trung ương thiết lập có ảnh hưởng đến cung tiền trong kinh tế) các chính sách. Các điều kiện kinh tế và chính sách của chính phủ thay đổi theo thời gian, đôi khi nhanh chóng, gây khó khăn cho việc làm sáng tỏ những tác động tiếp theo có thể xảy ra đối với các điều kiện kinh doanh. Bài xã luận này trước tiên sẽ cung cấp một số bối cảnh tổng thể ngắn gọn cho các cuộc thảo luận về tỷ lệ lạm phát, bao gồm các nguyên nhân cơ bản, và sau đó sẽ xem xét các tác động tiềm ẩn đối với nuôi trồng thủy sản toàn cầu.
Được định nghĩa một cách đơn giản, tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ giá cả trên toàn nền kinh tế đang tăng lên. Giảm phát là tỷ lệ giá cả đang giảm trên toàn bộ nền kinh tế. Điều quan trọng là phải hiểu rằng giảm phát có thể nghiêm trọng, thường tàn phá hơn lạm phát. Giảm phát có thể xảy ra khi kinh tế suy thoái dẫn đến chi tiêu tiêu dùng giảm dẫn đến cung cấp hàng hóa và dịch vụ dư thừa, buộc các doanh nghiệp phải giảm giá bán sản phẩm để tạo ra dòng tiền. Mặc dù người tiêu dùng có thể được hưởng mức giá thấp hơn, nhưng khi giá giảm xuống dưới chi phí sản xuất trong một khoảng thời gian, doanh nghiệp sẽ thất bại. Các doanh nghiệp thất bại dẫn đến ít việc làm hơn, thu nhập khả dụng ít hơn cho người tiêu dùng để mua hàng hóa và có thể dẫn nền kinh tế đi vào vòng xoáy suy thoái (ví dụ của Hoa Kỳ năm 1973–1975; 1981–1982; và 2007–2009), hoặc tệ hơn, gọi là cuộc Đại suy thoái ở Hoa Kỳ từ năm 1929 đến năm 1941.
Tỷ lệ lạm phát thấp thường cho thấy một nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ. Tại Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên bang chịu trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ và đã thiết lập tỷ lệ lạm phát mục tiêu là 2%. Tỷ lệ lạm phát cao có nghĩa là người tiêu dùng không còn có thể mua cùng số lượng hàng hóa và dịch vụ với thu nhập của họ. Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên, người tiêu dùng ngày càng phải đưa ra những quyết định khó khăn về những gì họ không còn đủ khả năng mua và tập trung chi tiêu vào những mặt hàng thiết yếu nhất.
Tại bất kỳ thời điểm nào, thường có những quốc gia gặp khó khăn về kinh tế và / hoặc các chính sách của chính phủ sai lầm dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao hoặc giảm phát. Vào thời điểm này , Venezuela đang trải qua tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới, 1198% (Davies, 2022). Trong khi lịch sử Venezuela có một nền kinh tế mạnh mẽ, chính sách của chính phủ tiếp tục duy trì mức chi tiêu cao cho các chương trình xã hội, bất chấp sự suy thoái gây ra bởi sự sụp đổ của giá dầu 2014–2016, đã dẫn đến tỷ lệ siêu lạm phát của nước này.
Có sự khác biệt nào trong những lo ngại về lạm phát năm 2022 không? Sự khác biệt dường như là sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ lạm phát ở nhiều quốc gia trên thế giới, từ Hoa Kỳ đến Liên minh Châu Âu, Trung Quốc và nhiều quốc gia khác (Davies, 2022). Các báo cáo từ Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu đề cập đến tỷ lệ lạm phát cao nhất trong 30–40 năm.
Có rất ít nghi vấn rằng động lực chính của các điều kiện kinh tế toàn cầu là đại dịch COVID-19 và sự ngừng hoạt động kinh tế sau đó để ngăn chặn sự lây lan của vi rút. Suy thoái kinh tế dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao, vào tháng 4 năm 2020, đã lên tới 14,7% ở Hoa Kỳ (Jordà et al., 2022). Phản ứng của chính phủ Mỹ tập trung vào các chính sách tài khóa liên quan đến các gói kích thích kinh tế chưa từng có. Vào tháng 3 năm 2020, Đạo luật Hỗ trợ, Cứu trợ và An ninh Kinh tế (CARES) của Coronavirus trị giá 2,2 nghìn tỷ USD đã được ký thành luật, tiếp theo là 910 tỷ USD trong Đạo luật Chiếm đoạt Hợp nhất và thêm 1,9 nghìn tỷ USD trong Đạo luật Giải cứu Hoa Kỳ. Mức hỗ trợ tài khóa trực tiếp cao như vậy rõ ràng đã gây ra lạm phát trong nền kinh tế Mỹ. Những gián đoạn kinh tế tiếp theo trong chuỗi cung ứng toàn cầu, tình trạng thiếu lao động và những tác động phụ từ việc Nga xâm lược Ukraine đối với nguồn cung dầu và ngũ cốc đã làm trầm trọng thêm tỷ lệ lạm phát trên toàn thế giới.
Tỷ lệ lạm phát năm 2022 có thể có ý nghĩa gì đối với nuôi trồng thủy sản trên toàn thế giới? Các nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản ở các nước có lạm phát cao đang phải đối mặt với việc tăng giá nhanh chóng đối với hầu hết các nguyên liệu đầu vào, từ thức ăn chăn nuôi đến nhiên liệu cho đến nhân công. Các trang trại đang thực hiện các biện pháp kiểm soát chi phí khi họ có thể để quản lý dòng tiền và duy trì khả năng kinh tế. Tuy nhiên, khó khăn lớn hơn việc quản lý chi phí gia tăng ở các trang trại nuôi trồng thủy sản là tình trạng ép giá - chi phí đang phát triển. Nhiều sản phẩm nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tại các thị trường thủy sản lớn là Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu, được các nhà kinh tế gọi là sản phẩm co giãn theo giá. Độ co giãn của giá đề cập đến lượng cầu thay đổi bao nhiêu khi giá thay đổi. Các sản phẩm thủy sản co giãn theo giá nhìn chung phải đối mặt với lượng cầu giảm khi giá tăng. Với việc giá cả ngày càng tăng, người tiêu dùng phải đánh giá lại chi tiêu của mình và tập trung đầu tiên vào việc mua những mặt hàng thiết yếu nhất của họ (thường không bao gồm thuỷ hải sản dành cho người tiêu dùng ở Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu). Vì vậy, mặc dù tăng chi phí sản xuất, nhiều nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản gặp khó khăn trong việc chuyển các khoản tăng chi phí này đến tay người tiêu dùng. Ở những quốc gia mà một số loại thủy sản được coi là hàng hóa thiết yếu, người sản xuất những loài thủy sản đó có thể chuyển chi phí tăng lên cho người tiêu dùng, nhưng ở những quốc gia nơi thủy sản thường là hàng xa xỉ, điều đó sẽ không đúng.
Ngày càng có nhiều báo cáo trong các ấn phẩm thương mại tiếp thị hải sản về việc các nhà hàng loại bỏ các món hải sản khỏi thực đơn của họ vì giá cả đã tăng vượt quá mức có thể chấp nhận được đối với nhiều khách hàng quen của họ. Ví dụ, vào năm 2022, tôm hùm (Spiegel, 2022), sò điệp, cua xanh, cá bơn, và các loại cá có vây khác đã bị loại bỏ khỏi thực đơn vì khách hàng quen của họ không thể mua được giá cao như vậy (Feuer, 2021; Jackson & Krader, 2021). Do đó, lượng cầu đối với các sản phẩm nuôi trồng thủy sản có thể sẽ giảm ở các thị trường lớn trên thế giới như Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu, do giá cả tăng.
Tỷ lệ lạm phát thường đi kèm với các loại ảnh hưởng kinh tế khác đối với doanh nghiệp. Công cụ tiền tệ chính được sử dụng bởi Cục Dự trữ Liên bang ở Hoa Kỳ để kiểm soát lạm phát là lãi suất, về mặt kỹ thuật được gọi là lãi suất quỹ liên bang. Tỷ lệ này là tỷ lệ mà các ngân hàng sử dụng để vay và cho nhau vay dự trữ vượt mức của họ. Lãi suất quỹ liên bang tăng dẫn đến lãi suất tổng thể tăng. Vì lãi suất, về mặt kinh tế, đại diện cho chi phí sử dụng vốn, lãi suất tăng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn sẽ tăng lên. Chi phí sử dụng vốn tăng dẫn đến cung tiền giảm. Do đó, không chỉ lãi suất đối với các khoản vay cho các dòng tín dụng đang hoạt động và các khoản vay khác cho các nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản sẽ tăng lên, mà việc giảm cung tiền đồng nghĩa với việc đầu tư ít hơn. Việc tăng lãi suất đã được sử dụng thành công để giảm lạm phát, nhưng với nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế nói chung, rất khó để biết chính xác việc tăng lãi suất sẽ có tác động đủ nhưng không quá mức bao nhiêu. Trong những năm 1970, tỷ lệ chi tiêu thâm hụt cao của chính phủ Hoa Kỳ đã dẫn đến tỷ lệ lạm phát hai con số. Với tỷ lệ lạm phát cao như vậy, cần phải tăng lãi suất mạnh mẽ để đưa lạm phát trong tầm kiểm soát. Sự gia tăng nhanh chóng của lãi suất trong những năm 1970 đã gây ra các cuộc suy thoái trong những năm 1980 (Ha et al., 2022).
Ngày càng có nhiều lo ngại rằng sẽ lặp lại tình trạng lạm phát đình trệ (lạm phát cao kết hợp với nhu cầu trì trệ) của những năm 1970 vào năm 2022 và hơn thế nữa. Thời gian sẽ cho biết liệu một cuộc suy thoái có xảy ra trong tương lai gần đối với Hoa Kỳ và các nơi khác hay không, và nếu có, nó có thể nghiêm trọng như thế nào. Nếu vậy, độ co giãn theo giá của nhu cầu thủy sản cho thấy rằng doanh số bán thủy sản (bao gồm cả doanh số nuôi trồng thủy sản) sẽ giảm nhanh hơn doanh số bán các loại nguồn cung cấp protein động vật khác. Ngay cả khi không có suy thoái kinh tế, những thách thức về việc chuyển chi phí tăng đến người tiêu dùng với cùng một khối lượng bán sẽ gây khó khăn cho các nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản.
Các nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản có thể làm gì khi tỷ lệ lạm phát ngày càng tăng ở nhiều nước? Thật không may, không có câu trả lời cho tất cả mọi người vì các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản, khách hàng tại thị trường mục tiêu của họ và điều kiện kinh tế địa phương rất khác nhau. Tuy nhiên, tình hình kinh tế ngày càng bất ổn có nghĩa đây là thời điểm tốt để đánh giá lại kế hoạch kinh doanh của trang trại, đặc biệt chú ý đến dòng tiền trong ngắn hạn. Việc quan tâm chặt chẽ đến việc kiểm soát chi phí và vận hành một cách tinh gọn, hiệu quả là điều quan trọng hơn bao giờ hết, cũng như để mắt đến các cơ hội tiếp thị mới. Lập kế hoạch kịch bản trò chơi chiến tranh có thể hữu ích để phát triển kế hoạch cho trường hợp xấu nhất cũng như các kịch bản lạc quan hơn.
Các nhà kinh tế vĩ mô liên tục theo dõi, phân tích và đánh giá các xu hướng kinh tế quốc gia ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, người ta ít chú ý đến các chính sách và yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến các thị trường cụ thể đối với sản phẩm nuôi trồng thủy sản như thế nào. Cần phải làm việc nhiều hơn nữa, đặc biệt là do sở thích đa dạng của người tiêu dùng trên các thị trường thủy sản lớn hơn như Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu.
Tuy nhiên, quan trọng hơn là cần có các chính sách của chính phủ hỗ trợ các nền kinh tế mạnh. Các nền kinh tế mạnh là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ổn định, vừa phải, tỷ lệ thất nghiệp tương đối thấp và chuỗi cung ứng hiệu quả, trong đó các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản có thể phát triển mạnh.
(vasep.com.vn) Để ứng phó với lệnh cấm của chính phủ Trung Quốc đối với các sản phẩm hải sản Nhật Bản vào tháng 9 năm ngoái, Sugiyo, một công ty chế biến surimi lớn của Nhật Bản, đang chuyển hướng bằng cách tiếp thị thanh cua, được sản xuất tại nhà máy ở Hoa Kỳ, sang thị trường Trung Quốc.
Hội nghị Thượng đỉnh Đa dạng sinh học của Liên hợp quốc lần thứ 16 (COP 16) được coi là bước đi quan trọng để thế giới tạo dựng "hòa bình với thiên nhiên".
(vasep.com.vn) Cá rô phi và cá tra là các loài cá thịt trắng được ưa thích trên thế giới vì giá cả hợp lý, thơm ngon, giàu dinh dưỡng. Tại một số thị trường lớn như Hoa Kỳ, cá rô phi được tiêu thụ nhiều hơn so với cá tra. Trung Quốc hiện đang là nguồn cung cá rô phi lớn nhất cho thị trường này. Tuy nhiên, 9 tháng đầu năm nay, thị trường cá rô phi đang có sự thay đổi, cả về sức mua, nguồn cung và sức tiêu thụ.
(vasep.com.vn) Chương trình mới của MSC có mục tiêu cuối cùng là giúp các ngư trường đạt được chứng nhận MSC. Sáng kiến này bổ sung cho các Dự án Cải thiện Ngư trường (FIP) hiện có.
(vasep.com.vn) Sản lượng tôm nuôi của Ecuador, Châu Á và Trung Quốc dự kiến sẽ có mức tăng trưởng nhẹ vào năm tới, trong khi Ấn Độ dự kiến sẽ phục hồi sau sự sụt giảm sản lượng trong năm 2023 và 2024.
(vasep.com.vn) Sản lượng nuôi cá chẽm và cá tráp (seabass và seabream) ở Địa Trung Hải đang chậm lại sau nhiều năm tăng trưởng nhanh chóng, theo ông Gorjan Nikolik, nhà phân tích cao cấp của ngân hàng Hà Lan Rabobank.
(vasep.com.vn) EU đã đạt được thỏa thuận về hạn ngạch đánh bắt cho Biển Baltic trong năm 2025. Các loài chủ chốt bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận này bao gồm cá trích, cá tuyết và cá hồi.
3 quý của năm 2024, sản lượng tôm nước lợ là hơn 1,1 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,8 tỷ USD. Trong khi mục tiêu ngành thủy sản đặt ra cho xuất khẩu tôm cả năm là 4 tỷ USD.
Theo Sở NN&PTNT Vĩnh Long, hiện nay tình hình xuất khẩu cá tra gặp khó khăn, giá cá thương phẩm giảm, chi phí sản xuất tăng khiến người nuôi e ngại thả giống, diện tích nuôi cá tra giảm so cùng kỳ
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn