Sản lượng tôm tương đối ổn định nên số cơ sở chế biến tôm đông lạnh quy mô công nghiệp không biến động
Điều tra cho biết, những năm qua, sản lượng tôm tương đối ổn định nên số cơ sở chế biến tôm đông lạnh quy mô công nghiệp không biến động, với tổng công suất chế biến đạt 1,4 triệu tấn sản phẩm/năm. Cụ thể ở ĐBSCL có 66 cơ sở, chiếm 43,7%; Đông Nam Bộ có 63 cơ sở, chiếm 41,7%; Duyên hải Nam Trung Bộ có 20 cơ sở, chiếm 13,3%; miền Bắc có 2 cơ sở, chiếm 1,3%.
Phân bố cơ sở chế biến tôm đông lạnh phù hợp với sản lượng tôm nuôi của các vùng. Bởi sản lượng tôm ở ĐBSCL chiếm đến 85,8% so với cả nước nên các cơ sở chế biến tôm cũng tập trung chủ yếu ở khu vực này, với nhiều cơ sở quy mô lớn. Khu vực Miền Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ chỉ chiếm 12,5% sản lượng.
Tỷ lệ lao động theo vị trí việc làm đòi hỏi có kỹ thuật công nghệ và nghiên cứu phát triển chỉ đạt 3,1% là tương đối thấp, số lao động trực tiếp còn cao 83,6%. Lao động quản lý và gián tiếp chỉ chiếm 1% và 5% là tương đối thấp, thể hiện khả năng các doanh nghiệp chế biến tôm đã đưa công nghệ thông tin vào phục vụ sản xuất kinh doanh một cách mạnh mẽ.
Trình độ lao động của các cơ sở chế biến tôm còn khiêm tốn. Lao động phổ thông chiếm đến 83,6%, chứng tỏ làm thủ công còn nhiều. Trình độ trung cấp trở lên 13,8%; công nhân kỹ thuật có bằng cấp 2,1% và khác là 0,5%. Do đó, hiện nay cần đẩy mạnh cơ giới hóa, tự động hóa trong chế biến tôm.
Số lượng tôm nguyên liệu được các doanh nghiệp đưa vào chế biến có chiều hướng tăng lên nhưng không lớn trong 3 năm 2019, 2020 và 2021, chỉ biến động từ 4,3 – 6%. Sản lượng sản phẩm cũng tăng lên tương ứng từ 2 – 4%. Tuy vậy, định mức nguyên liệu tôm/sản phẩm trung bình của doanh nghiệp có chiều hướng tăng lên từ các năm 2019, 2020 và 2021 là 1,26, 1,31 và 1,32 tăng 1- 4%; như vậy có thể doanh nghiệp chuyển đổi sản phẩm hoặc chất lượng nguyên liệu, cỡ tôm có dấu hiệu giảm xuống.
Theo kết quả điều tra, sản phẩm đông lạnh chính từ tôm gồm: Sản phẩm chế biến tinh là tôm nõn tươi/hấp đông lạnh, tôm tẩm bột chiên hoặc không chiên đông lạnh, sushi, nobashi… chiếm 90,3%; Sản phẩm chế biến thô là tôm tươi/hấp (nguyên con hoặc bỏ đầu) đông lạnh chiếm 9,7%. Các mặt hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước tương đối giống nhau, được bảo quản đông lạnh trong suốt quá trình phân phối và tiêu thụ.
Sản phẩm tôm đông lạnh
Qua số liệu điều tra được tổng hợp có thể thấy, các doanh nghiệp chú trọng đầu tư nhà xưởng, máy móc và con người để chuyển đổi chế biến thô từ những năm 2000 trở về trước thành các doanh nghiệp chế biến ra các sản phẩm chế biến tinh có GTGT cao. Đến thời điểm 2021 đã có đến 35,9% số doanh nghiệp chuyên chế biến tinh và 38,5% chế biến cả thô và tinh nên đã chế biến ra sản phẩm tinh chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu sản phẩm.
Tuy nhiên, có thực tế là, số lượng doanh nghiệp chế biến tinh hay sản phẩm chế biến thô không thể hiện được năng lực công nghệ của nhà máy mà phụ thuộc doanh nghiệp đó xác định xuất khẩu sản phẩm cho thị trường nào và thị trường đó yêu cầu mức độ chế biến ra sao. Hiện nay, doanh nghiệp chế biến tôm ở Việt Nam có thể đáp ứng hầu hết yêu cầu của tất cả các thị trường trên thế giới.
Điều tra cho thấy, 100% doanh nghiệp áp dụng ít nhất 1 hệ thống quản lý chất lượng. Đặc biệt, số doanh nghiệp áp dụng cùng lúc 8 hệ thống là 1,8%; áp dụng 5 hệ thống là 10,5%, áp dụng 4 hệ thống là 22,8%, áp dụng 3 hệ thống là 28,1% và áp dụng 2 hệ thống là 22,8%.
Các hệ thống áp dụng chủ yếu là HACCP có 94,7%, GMP/SSOP có 87,7%, ISO có 38,6% ... Như vậy các doanh nghiệp chế biến tôm Việt Nam rất quan tâm đến công tác quản lý sản xuất, kinh doanh và chất lượng sản phẩm. Phần lớn sản phẩm chế biến tôm dành cho xuất khẩu nên các hệ thống quản lý chất lượng đều là những hệ thống được quốc tế công nhận và áp dụng cho thực phẩm như HACCP và ISO.
Doanh nghiệp chế biến tôm ở Việt Nam có thể đáp ứng hầu hết yêu cầu của tất cả các thị trường trên thế giới
Điều tra cũng cho biết, có 20,0% doanh nghiệp tổ chức xử lý chất thải và đã được chứng nhận ISO 14001; có 10,9% doanh nghiệp xử lý chất thải hoạt động theo tiêu chuẩn ISO 14001 nhưng chưa được cấp chứng chỉ; có 38,2% doanh nghiệp xử lý chất thải nhưng không hoạt động theo tiêu chuẩn ISO 14001. Đặc biệt, có 30,9% doanh nghiệp không xử lý chất thải.
Về khả năng xử lý chất thải: Trong số các doanh nghiệp có áp dụng hệ thống xử lý chất thải chỉ 12 doanh nghiệp trả lời được tỷ lệ xử lý chất thải. Cụ thể, có 91,7% doanh nghiệp (tương ứng 11 danh nghiệp) trả lời xử lý được 100% chất thải; còn 8,3% doanh nghiệp (tương ứng 1 doanh nghiệp) chỉ xử lý được 80% lượng chất thải. Chi phí xử lý chất thải của một doanh nghiệp từ 200.000.000 đồng/năm đến 3.400.000.000 đồng/năm.
Qua số liệu trên thấy rằng, trong những năm qua, nhà nước, doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư cho công tác xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Tuy vậy, kết quả chưa đạt như kỳ vọng, vẫn còn không ít doanh nghiệp chưa xử lý hoặc có nhưng xử lý chưa tốt. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là chi phí cho xử lý chất thải quá lớn, trung bình mỗi doanh nghiệp phải chi 1,1 tỷ đồng/năm.
Ngoài ra, doanh nghiệp xây dựng khi chưa có Luật Bảo vệ môi trường nên hiện tại muốn xây dựng, cải tạo, mở rộng hệ thống xử lý chất thải nhưng không có mặt bằng hoặc doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp nên chất thải được gom vào xử lý chung, không thuộc quản lý của doanh nghiệp. Do đó, đang cần Nhà nước hỗ trợ mặt bằng xây dựng, cải tạo, mở rộng hệ thống xử lý chất thải và kinh phí xử lý chất thải nhằm khuyến kích doanh nghiệp bảo vệ tốt môi trường.
Theo Tép bạc
(vasep.com.vn) Thị trường cá tuyết và cá haddock đang chịu tác động mạnh từ các yếu tố địa chính trị, gồm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Nga và sự thay đổi trong chính sách thuế của Trung Quốc. Những diễn biến này khiến nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu trở nên bất ổn, gia tăng rủi ro cho các nhà xuất khẩu của Na Uy.
Bất chấp căng thẳng thương mại leo thang với Hoa Kỳ, ngành tôm Ấn Độ vẫn ghi nhận đà tăng trưởng mạnh trong năm tài chính 2026, theo Economic Times. Dữ liệu từ CareEdge Ratings cho thấy trong năm tháng đầu năm tài chính, xuất khẩu tôm của Ấn Độ tăng 18% về giá trị, lên 2,43 tỷ USD, và tăng 11% về khối lượng, đạt 348.000 tấn.
(vasep.com.vn) Từ ngày 8 đến 12/12/2025, Ủy ban Thủy sản Nga – Na Uy sẽ tiến hành vòng đàm phán quan trọng trong bối cảnh hoạt động khai thác cá tuyết tại Biển Barents đang chịu tác động lớn từ các biện pháp trừng phạt và căng thẳng chính trị. EU và Na Uy trước đó đã áp lệnh hạn chế đối với hai doanh nghiệp Nga là Norebo và Murman Seafood, làm gián đoạn truyền thống hợp tác và chia sẻ ngư trường giữa hai nước.
(vasep.com.vn) Dự án xây dựng một nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản đang được triển khai tại vùng Saratov, đánh dấu bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của khu vực. Công trình đặt tại quận Balashovsky, với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ ruble và dự kiến hoàn thành vào năm 2026.
(vasep.com.vn) Chính phủ Brazil dự kiến sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc liệu cá rô phi có bị xếp vào danh mục loài ngoại lai xâm lấn hay không vào năm 2026. Trước đó, vào tháng 10/2025, Ủy ban Đa dạng Sinh học Quốc gia (Conabio), trực thuộc Bộ Môi trường, đã đưa cá rô phi vào Danh sách chính thức các loài ngoại lai xâm lấn. Việc phân loại này chưa đồng nghĩa với lệnh cấm nuôi, nhưng đã làm dấy lên tranh luận trong ngành, khi cơ quan môi trường cảnh báo rằng cá rô phi đang xuất hiện ở nhiều con sông ngoài vùng nuôi, có nguy cơ gây mất cân bằng sinh thái.
(vasep.com.vn) Giá ghẹ xanh (blue swimming crab – BSC) và ghẹ đỏ (red swimming crab – RSC) trên thị trường Mỹ vẫn duy trì ở mức kỷ lục, dù ngành nhập khẩu vừa nhận được “phao cứu sinh” tạm thời từ Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ (CIT) đối với lệnh cấm nhập khẩu liên quan đến Đạo luật Bảo vệ Động vật Có vú Biển (MMPA).
(vasep.com.vn) Trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành tôm Ấn Độ trải qua một trong những giai đoạn nhiều biến động nhất của thập kỷ. Sản lượng xuất khẩu tăng nhẹ nhưng phân hóa mạnh theo từng tháng, giá trị xuất khẩu tăng cao hơn sản lượng, trong khi cấu trúc thị trường chuyển dịch nhanh chóng dưới tác động của cú sốc thuế quan tại Mỹ.
(vasep.com.vn) Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) đã đặt ra tổng sản lượng đánh bắt được (TAC) đối với cá cơm (Engraulis ringens) và cá cơm trắng (Anchoa nasus) ở vùng biển miền trung bắc Peru là 1,63 triệu tấn cho mùa đánh bắt thứ hai vào năm 2025.
(vasep.com.vn) Nhập khẩu cá minh thái đông lạnh của Hàn Quốc trong tháng 10 đạt 6.391 tấn, giảm 61% so với mức 16.488 tấn của cùng kỳ năm 2023. Tính lũy kế 10 tháng đầu năm, Hàn Quốc nhập khẩu 101.521 tấn, thấp hơn 17% so với 121.625 tấn của cùng kỳ năm trước.
Sáng 2/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) chủ trì phiên họp lần thứ 24 của Ban Chỉ đạo, kết nối trực tuyến với 21 tỉnh, thành phố ven biển.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn