Nguồn tôm nguyên liệu để chế biến và XK của Trung Quốc được lấy từ nguồn tôm nuôi trong nước và nguồn tôm NK.
Trong 10 năm (2007-2016), xét về giá trị, XK tôm của Trung Quốc đạt thấp nhất năm 2007 với 1,3 tỷ USD và đạt đỉnh năm 2014 với 2,6 tỷ USD. Từ năm 2007-2014, giá trị XK tôm của nước này tăng liên tục, sau đó giảm xuống năm 2015 và tiếp tục phục hồi năm 2016.
Xét về khối lượng, trong giai đoạn 10 năm (2007-2016), khối lượng XK tôm của Trung Quốc đạt cao nhất vào năm 2011 với 305.228 tấn và đạt thấp nhất vào năm 2015 với 191.945 tấn. Trong giai đoạn này, khối lượng XK tăng liên tục từ 2007 đến 2011, sau đó giảm liên tục từ 2011 đến 2015, sau 2015 khối lượng XK phục hồi đến hiện nay.
Năm 2016, XK tôm của Trung Quốc đạt 205.306 tấn; trị giá 2,2 tỷ USD; giảm 7% về khối lượng và 12% về giá trị. Mỹ và Hồng Kông (Trung Quốc) và Nhật Bản là 3 thị trường tiêu thụ tôm lớn nhất của Trung Quốc, lần lượt chiếm 16,9; 13,6% và 11,8% tổng giá trị XK tôm của Trung Quốc.
Giá trị XK sang top 5 thị trường NK tôm lớn nhất của Trung Quốc đều tăng trong đó XK sang Malaysia tăng mạnh nhất 29%. XK sang Mỹ, Hồng Kông (Trung Quốc) và Nhật Bản tăng lần lượt 2%; 15% và 16% so với năm 2015.
Nửa đầu năm 2017, XK tôm của Trung Quốc đạt 897,4 triệu USD; tăng 4% so với cùng kỳ năm 2016. Mỹ, Đài Bắc (Trung Quốc), Hồng Kông (Trung Quốc) là 3 thị trường NK tôm lớn nhất của Trung Quốc, lần lượt chiếm 21,4%; 10,9% và 11,3% tổng giá trị XK tôm của Trung Quốc. Trong 3 thị trường NK chính, XK sang Mỹ, Đài Bắc (Trung Quốc) tăng, trong khi XK sang Hồng Kông (Trung Quốc) giảm so với cùng kỳ năm ngoái.
Năm 2016, giá XK trung bình tôm của Trung Quốc đạt 10,5 USD/kg; giá XK trung bình sang Mỹ đạt 9,7 USD/kg, sang Hồng Kông (Trung Quốc) đạt 14,7 USD/kg, sang Nhật Bản đạt 9,3 USD/kg.
Tôm nguyên con đông lạnh (mã HS 030617), tôm chế biến không đóng hộp kín khí (mã HS 160521) và tôm chế biến đóng hộp kín khí (mã HS 160529) là các sản phẩm XK chính của Trung Quốc. Nửa đầu năm 2017, các sản phẩm này lần lượt chiếm 41,3%; 30,7% và 24% tổng XK tôm của nước này.
Trong 3 sản phẩm XK chính, tính tới tháng 6/2017, XK tôm nguyên con đông lạnh (mã HS 030617) giảm 12,9% trong khi XK tôm mã HS 160521 và mã HS 160529 tăng lần lượt 31,7% và 49,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đối với sản phẩm tôm nguyên con đông lạnh; Hồng Kông, Tây Ban Nha và Malaysia lần lượt là 3 thị trường tiêu thụ chính sản phẩm này của Trung Quốc.
Mỹ, Australia và Đài Bắc là 3 thị trường NK chính sản phẩm tôm chế biến không đóng hộp kín khí.
Nhờ công nghệ chế biến trong nước phát triển và nhu cầu ngày càng tăng từ các thị trường tiêu thụ tôm thế giới nên XK tôm của Trung Quốc ngày càng tăng. Với lợi thế giá trung bình XK thấp, Trung Quốc đang là lựa chọn của các thị trường nhạy cảm về giá. Đây cũng là yếu tố các DN XK tôm của Việt Nam cần chú ý để tăng khả năng cạnh tranh với Trung Quốc trên các thị trường lớn.
|
Xuất khẩu tôm của Trung Quốc (GT: nghìn USD, Nguồn: ITC) |
||||||
|
Thị trường |
2015 |
2016 |
Tăng, giảm (%) |
T1-T6/2016 |
T1-T6/2017 |
Tăng, giảm (%) |
|
TG |
1.921.034 |
2.153.780 |
12,1 |
862.328 |
897.393 |
4,1 |
|
Mỹ |
358.380 |
363.926 |
1,5 |
156.160 |
191.923 |
22,9 |
|
Đài Bắc (Trung Quốc) |
186.467 |
227.844 |
22,2 |
98.055 |
98.210 |
0,2 |
|
Hồng Kông (Trung Quốc) |
254.692 |
292.826 |
15,0 |
132.253 |
101.602 |
-23,2 |
|
Nhật Bản |
219.009 |
254.082 |
16,0 |
94.513 |
93.752 |
-0,8 |
|
Australia |
118.493 |
126.899 |
7,1 |
56.676 |
41.318 |
-27,1 |
|
Mexico |
97.520 |
123.910 |
27,1 |
47.039 |
71.689 |
52,4 |
|
Canada |
86.677 |
104.980 |
21,1 |
27.874 |
34.270 |
22,9 |
|
Malaysia |
116.215 |
150.413 |
29,4 |
44.926 |
66.266 |
47,5 |
|
Tây Ban Nha |
95.353 |
72.019 |
-24,5 |
30.958 |
32.007 |
3,4 |
|
Singapore |
25.874 |
26.963 |
4,2 |
10.975 |
20.616 |
87,8 |
|
Hàn Quốc |
113.367 |
125.989 |
11,1 |
48.421 |
34.404 |
-28,9 |
|
Chile |
43.000 |
55.912 |
30,0 |
19.050 |
25.767 |
35,3 |
|
UAE |
9.401 |
11.352 |
20,8 |
5.080 |
8.440 |
66,1 |
|
Nga |
36.640 |
74.060 |
102,1 |
26.629 |
19.218 |
-27,8 |
|
Philippines |
21.606 |
19.868 |
-8,0 |
10.418 |
11.544 |
10,8 |
(vasep.com.vn) Thị trường cá tuyết và cá haddock đang chịu tác động mạnh từ các yếu tố địa chính trị, gồm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Nga và sự thay đổi trong chính sách thuế của Trung Quốc. Những diễn biến này khiến nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu trở nên bất ổn, gia tăng rủi ro cho các nhà xuất khẩu của Na Uy.
Bất chấp căng thẳng thương mại leo thang với Hoa Kỳ, ngành tôm Ấn Độ vẫn ghi nhận đà tăng trưởng mạnh trong năm tài chính 2026, theo Economic Times. Dữ liệu từ CareEdge Ratings cho thấy trong năm tháng đầu năm tài chính, xuất khẩu tôm của Ấn Độ tăng 18% về giá trị, lên 2,43 tỷ USD, và tăng 11% về khối lượng, đạt 348.000 tấn.
(vasep.com.vn) Từ ngày 8 đến 12/12/2025, Ủy ban Thủy sản Nga – Na Uy sẽ tiến hành vòng đàm phán quan trọng trong bối cảnh hoạt động khai thác cá tuyết tại Biển Barents đang chịu tác động lớn từ các biện pháp trừng phạt và căng thẳng chính trị. EU và Na Uy trước đó đã áp lệnh hạn chế đối với hai doanh nghiệp Nga là Norebo và Murman Seafood, làm gián đoạn truyền thống hợp tác và chia sẻ ngư trường giữa hai nước.
(vasep.com.vn) Dự án xây dựng một nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản đang được triển khai tại vùng Saratov, đánh dấu bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của khu vực. Công trình đặt tại quận Balashovsky, với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ ruble và dự kiến hoàn thành vào năm 2026.
(vasep.com.vn) Chính phủ Brazil dự kiến sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc liệu cá rô phi có bị xếp vào danh mục loài ngoại lai xâm lấn hay không vào năm 2026. Trước đó, vào tháng 10/2025, Ủy ban Đa dạng Sinh học Quốc gia (Conabio), trực thuộc Bộ Môi trường, đã đưa cá rô phi vào Danh sách chính thức các loài ngoại lai xâm lấn. Việc phân loại này chưa đồng nghĩa với lệnh cấm nuôi, nhưng đã làm dấy lên tranh luận trong ngành, khi cơ quan môi trường cảnh báo rằng cá rô phi đang xuất hiện ở nhiều con sông ngoài vùng nuôi, có nguy cơ gây mất cân bằng sinh thái.
(vasep.com.vn) Giá ghẹ xanh (blue swimming crab – BSC) và ghẹ đỏ (red swimming crab – RSC) trên thị trường Mỹ vẫn duy trì ở mức kỷ lục, dù ngành nhập khẩu vừa nhận được “phao cứu sinh” tạm thời từ Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ (CIT) đối với lệnh cấm nhập khẩu liên quan đến Đạo luật Bảo vệ Động vật Có vú Biển (MMPA).
(vasep.com.vn) Trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành tôm Ấn Độ trải qua một trong những giai đoạn nhiều biến động nhất của thập kỷ. Sản lượng xuất khẩu tăng nhẹ nhưng phân hóa mạnh theo từng tháng, giá trị xuất khẩu tăng cao hơn sản lượng, trong khi cấu trúc thị trường chuyển dịch nhanh chóng dưới tác động của cú sốc thuế quan tại Mỹ.
(vasep.com.vn) Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) đã đặt ra tổng sản lượng đánh bắt được (TAC) đối với cá cơm (Engraulis ringens) và cá cơm trắng (Anchoa nasus) ở vùng biển miền trung bắc Peru là 1,63 triệu tấn cho mùa đánh bắt thứ hai vào năm 2025.
(vasep.com.vn) Nhập khẩu cá minh thái đông lạnh của Hàn Quốc trong tháng 10 đạt 6.391 tấn, giảm 61% so với mức 16.488 tấn của cùng kỳ năm 2023. Tính lũy kế 10 tháng đầu năm, Hàn Quốc nhập khẩu 101.521 tấn, thấp hơn 17% so với 121.625 tấn của cùng kỳ năm trước.
Sáng 2/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) chủ trì phiên họp lần thứ 24 của Ban Chỉ đạo, kết nối trực tuyến với 21 tỉnh, thành phố ven biển.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn