Tính toán tôm LWE: Sản lượng tôm nuôi chỉ giảm 10%
Để kiểm tra chéo các số liệu của SAP, chúng tôi có thể sử dụng dữ liệu xuất khẩu của Ấn Độ để tính toán ước tính sản lượng tôm nuôi LWE (xem Biểu đồ 3). Áp dụng tỷ lệ LWE do một nhà xuất khẩu lớn cung cấp cho tôi - ngay cả khi chúng tôi trừ đi 50.000 tấn tôm đánh bắt tự nhiên - sẽ dẫn đến ước tính sản lượng tôm nuôi là 701.000 tấn. Con số này cao hơn một chút so với ước tính của SAP, nhưng vẫn giảm 10%. Con số này thấp hơn mức giảm xuất khẩu 14% và được giải thích là do LWE thấp hơn được sử dụng cho năm 2020 do xuất khẩu nguyên liệu thô sang Trung Quốc giảm và xuất khẩu sản phẩm nấu chín sang Mỹ.
Chu kỳ nuôi ngắn hơn, thu hoạch tôm cỡ nhỏ hơn Ngoài ước tính sản lượng trong tài liệu đánh giá vụ nuôi của mình, SAP cũng trình bày một số xu hướng chính của nông dân Ấn Độ. Hai trong số đó thu hút sự chú ý: trước hết, so với năm 2019, mật độ thả ở hầu hết các vùng đã giảm xuống còn 20-40 con/m2. Chỉ ở các quận phía nam của Andhra Pradesh, Tây Bengal và Tamil Nadu có mật độ phổ biến là 20-40 PL/m2 và 41-60 PL/m2; thứ hai, SAP cũng phát hiện ra rằng thời gian nuôi đã giảm từ 110 ngày xuống 90 ngày, và bất cứ khi nào có thể, nông dân nuôi ba hoặc bốn vụ mỗi năm. Những chu kỳ vụ mùa ngắn hơn này dẫn đến chủ yếu là tôm có kích thước nhỏ hơn. Ở Ấn Độ, kích cỡ tôm chủ yếu là 10-16 gram (61-100 con mỗi kg). Tuy nhiên, nhìn vào các vùng cụ thể, các nhà sản xuất ở Tây Bengal và Odisha chủ yếu sản xuất tôm 15-25 gram (41-60 con/kg), và các nhà sản xuất ở Gujarat sản xuất tôm 25-33 gram (31-40 con/kg).
Chúng ta không nên đánh giá quá cao tiềm năng gia tăng sản lượng ở quy mô nhỏ. Ở Odisha và cả Tây Bengal, sẽ khó sản xuất quy mô nhỏ vì không có lợi cho người nông dân. Thông thường tỷ suất lợi nhuận sẽ chỉ hợp lý đối với cỡ tôm từ 50 con/kg trở lên. Nhưng bây giờ, vì chi phí - chẳng hạn như đối với dầu diesel - đã tăng lên, điều này thậm chí có thể phù hợp với tôm cỡ >40 con/kg. Mặc dù ông thừa nhận rằng điều này có thể khác ở Andhra Pradesh, nơi nông dân gần gũi hơn với hầu hết các nhà cung cấp đầu vào và được kết nối tốt hơn với lưới điện, nhưng ông khó tin rằng sản xuất nhiều tôm cỡ nhỏ dưới 60 con/kg sẽ là một tương lai bền vững cho ngành tôm của Ấn Độ. Một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất của Ấn Độ ở Andhra Pradesh nói rằng tôm cỡ nhỏ chủ yếu có nhu cầu từ thị trường Trung Quốc và thị trường bán lẻ Hoa Kỳ. Phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc là rất rủi ro do sự biến động của thị trường đó. Công ty hy vọng rằng, nếu năm nay nhu cầu dịch vụ lương thực của Hoa Kỳ thúc đẩy giá tôm cỡ lớn hơn, nông dân có thể được khuyến khích sản xuất lại cỡ lớn hơn.
Ngay cả khi có những cảnh báo này, tôi vẫn không khỏi thắc mắc xu hướng năm ngoái đối với chu kỳ vụ mùa ngắn hơn và quy mô thu hoạch nhỏ hơn có thể có ý nghĩa như thế nào đối với cấu trúc và động lực của ngành tôm Ấn Độ nếu nó vẫn như vậy trong vài năm tới…
Dòng tôm bố mẹ kháng thể tốt: có giúp khôi phục việc nuôi tôm cỡ lớn và thả mật độ dày hơn?
Việc tập trung vào tôm cỡ nhỏ hơn là do một số vấn đề về thị trường và sản xuất. Nhưng từ phía sản xuất, có thể có một giải pháp. Một số nhà điều hành trại giống của Ấn Độ vào cuối năm 2020 đã đặt hàng một số lô tôm bố mẹ kháng bệnh từ các nhà cung cấp như Hệ thống Cải thiện Tôm (SIS) và Vịnh Kona, cũng như tôm bố mẹ High Vigor của American Penaeid Inc. (API). Những đàn tôm này là những con tôm vượt trội về tỷ lệ sống trong điều kiện khắc nghiệt. Ravi Kumar Yellanki, giám đốc điều hành của tập đoàn sản xuất giống Vaisakhi lớn nhất Ấn Độ, ông đã đề cập rằng sự hấp thụ của những dòng kháng này có thể chậm. Ông gợi ý rằng ban đầu chỉ những nông dân doanh nghiệp lớn hơn mới sử dụng những thứ này. Theo Yellanki, phần lớn nông dân ở Ấn Độ vẫn đang tập trung vào tăng trưởng. Nhưng một khi thành công của các dòng kháng thể được chứng minh, chúng ta có thể thấy nhiều nông dân chọn nuôi chúng hơn.
Nếu thành công, việc sử dụng các dòng tôm kháng thể tốt này có thể có tác động lớn đến sản xuất. Các nhà xuất khẩu sang Hoa Kỳ cần quy mô lớn hơn cho hoạt động kinh doanh theo chương trình của họ có thể bắt đầu khuyến khích nông dân sử dụng dòng tôm giống này. Nếu nông dân có những PL với kích thước lớn hơn và ít rủi ro dịch bệnh hơn, sẽ cung cấp cho các nhà xuất khẩu nhiều nguyên liệu hơn. Quan trọng hơn, nếu những PL này tốt hơn các dòng thông thường, nông dân cũng có thể chọn tăng mật độ thả khi sử dụng những PL này, góp phần nâng cao năng suất và sản lượng tôm nuôi nhiều hơn.
Kết luận Nhìn chung, Ấn Độ phải vật lộn để phục hồi sản xuất trong nửa đầu năm 2021 do hai lý do chính: một mặt, sự bất ổn định của thị trường Mỹ - nơi tồn kho cao có thể sẽ kìm hãm nhu cầu trong Quý 2 - và thị trường Trung Quốc - có xu hướng lựa chọn tôm trong nước do phát hiện COVID trong tôm nhập khẩu; mặt khác, là những thách thức liên tục với dịch bệnh. Tuy nhiên, tôi vẫn tự tin về triển vọng của Ấn Độ. Lưu ý đến mật độ thả nuôi hiện tại ở Andhra Pradesh, lượng đất vẫn có thể được chuyển đổi thành ao nuôi tôm ở Gujarat và Odisha, và chi phí sản xuất tương đối thấp của Ấn Độ so với hầu hết các nước châu Á khác, tôi chắc chắn rằng - trong về lâu dài - Ấn Độ sẽ là nước đóng góp chính vào sự gia tăng dự kiến của sản lượng tôm nuôi toàn cầu. Tôi thậm chí tin rằng trong những điều kiện thích hợp, sự gia tăng sản lượng của chính Ấn Độ có thể đến sớm hơn chúng ta mong đợi. Nếu thị trường và điều kiện sản xuất đột ngột thuận lợi, nông dân Ấn Độ có thể dễ dàng tăng mật độ thả nuôi. Ngay cả khi tăng 20/40 PL / m2 lên trung bình 30/60 PL / m2 nếu thu hoạch thành công sẽ có nghĩa là tăng 25% đến 50% về sản lượng. Điều này có nghĩa là sản lượng có thể đột ngột đạt từ 800.000 tấn đến 900.000 tấn. Nhưng với vài trăm ao bổ sung, Ấn Độ rất có thể sẽ đột ngột vượt qua mốc sản lượng 1 triệu tấn.
(vasep.com.vn) Thị trường cá tuyết và cá haddock đang chịu tác động mạnh từ các yếu tố địa chính trị, gồm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Nga và sự thay đổi trong chính sách thuế của Trung Quốc. Những diễn biến này khiến nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu trở nên bất ổn, gia tăng rủi ro cho các nhà xuất khẩu của Na Uy.
Bất chấp căng thẳng thương mại leo thang với Hoa Kỳ, ngành tôm Ấn Độ vẫn ghi nhận đà tăng trưởng mạnh trong năm tài chính 2026, theo Economic Times. Dữ liệu từ CareEdge Ratings cho thấy trong năm tháng đầu năm tài chính, xuất khẩu tôm của Ấn Độ tăng 18% về giá trị, lên 2,43 tỷ USD, và tăng 11% về khối lượng, đạt 348.000 tấn.
(vasep.com.vn) Từ ngày 8 đến 12/12/2025, Ủy ban Thủy sản Nga – Na Uy sẽ tiến hành vòng đàm phán quan trọng trong bối cảnh hoạt động khai thác cá tuyết tại Biển Barents đang chịu tác động lớn từ các biện pháp trừng phạt và căng thẳng chính trị. EU và Na Uy trước đó đã áp lệnh hạn chế đối với hai doanh nghiệp Nga là Norebo và Murman Seafood, làm gián đoạn truyền thống hợp tác và chia sẻ ngư trường giữa hai nước.
(vasep.com.vn) Dự án xây dựng một nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản đang được triển khai tại vùng Saratov, đánh dấu bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của khu vực. Công trình đặt tại quận Balashovsky, với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ ruble và dự kiến hoàn thành vào năm 2026.
(vasep.com.vn) Chính phủ Brazil dự kiến sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc liệu cá rô phi có bị xếp vào danh mục loài ngoại lai xâm lấn hay không vào năm 2026. Trước đó, vào tháng 10/2025, Ủy ban Đa dạng Sinh học Quốc gia (Conabio), trực thuộc Bộ Môi trường, đã đưa cá rô phi vào Danh sách chính thức các loài ngoại lai xâm lấn. Việc phân loại này chưa đồng nghĩa với lệnh cấm nuôi, nhưng đã làm dấy lên tranh luận trong ngành, khi cơ quan môi trường cảnh báo rằng cá rô phi đang xuất hiện ở nhiều con sông ngoài vùng nuôi, có nguy cơ gây mất cân bằng sinh thái.
(vasep.com.vn) Giá ghẹ xanh (blue swimming crab – BSC) và ghẹ đỏ (red swimming crab – RSC) trên thị trường Mỹ vẫn duy trì ở mức kỷ lục, dù ngành nhập khẩu vừa nhận được “phao cứu sinh” tạm thời từ Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ (CIT) đối với lệnh cấm nhập khẩu liên quan đến Đạo luật Bảo vệ Động vật Có vú Biển (MMPA).
(vasep.com.vn) Trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành tôm Ấn Độ trải qua một trong những giai đoạn nhiều biến động nhất của thập kỷ. Sản lượng xuất khẩu tăng nhẹ nhưng phân hóa mạnh theo từng tháng, giá trị xuất khẩu tăng cao hơn sản lượng, trong khi cấu trúc thị trường chuyển dịch nhanh chóng dưới tác động của cú sốc thuế quan tại Mỹ.
(vasep.com.vn) Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) đã đặt ra tổng sản lượng đánh bắt được (TAC) đối với cá cơm (Engraulis ringens) và cá cơm trắng (Anchoa nasus) ở vùng biển miền trung bắc Peru là 1,63 triệu tấn cho mùa đánh bắt thứ hai vào năm 2025.
(vasep.com.vn) Nhập khẩu cá minh thái đông lạnh của Hàn Quốc trong tháng 10 đạt 6.391 tấn, giảm 61% so với mức 16.488 tấn của cùng kỳ năm 2023. Tính lũy kế 10 tháng đầu năm, Hàn Quốc nhập khẩu 101.521 tấn, thấp hơn 17% so với 121.625 tấn của cùng kỳ năm trước.
Sáng 2/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) chủ trì phiên họp lần thứ 24 của Ban Chỉ đạo, kết nối trực tuyến với 21 tỉnh, thành phố ven biển.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn