Dưới đây, Ban Biên tập Bản tin TMTS số 29-2017 xin đăng nguyên văn bài phân tích của ông Bình về việc có sự cần thiết duy trì chế độ cấp Giấy xác nhận phù hợp quy định ATTP (GXN) không và giải pháp nào để các doanh nghiệp tuân thủ quy định? Đây cũng chính là vướng mắc đã và đang gây bức xúc nhất đối với các DN (không chỉ ngành thủy sản) trong suốt 2 năm qua.
Có sự cần thiết duy trì chế độ cấp Giấy xác nhận phù hợp quy định ATTP không?
Cục ATTP Bộ Y tế (BYT) nêu lý do tình trạng “sản xuất nhỏ lẻ”, “ý thức tuân thủ pháp luật của các hộ kinh doanh gia đình chưa cao (trồng rau 2 luống, nuôi lợn 2 chuồng, 1 để dùng, 1 để bán)” để đề nghị duy trì chế độ cấp GXN. Các lý do này không ăn nhập gì với thực tế quản lý của BYT: Thực tế hiện nay BYT không tập trung quản lý khu vực sản xuất nhỏ lẻ, hộ kinh doanh gia đình, mà chủ yếu tập trung vào quản lý các khu vực ít nguy cơ như xuất nhập khẩu (XNK), sản xuất công nghiệp.
Các số liệu sau sẽ chứng minh điều này: Theo phân công của BYT tại Thông tư 19/2012/TT-BYT thì các Sở cấp GXN đối với sản xuất trên địa bàn (khu vực “sản xuất nhỏ lẻ”) để tiêu thụ trong nước, Cục ATTP (VFA) cấp đối với XNK (khu vực không được BYT coi là lý do để duy trì). Theo Báo cáo số 37/BC-CP ngày 3/2/2017 của Chính Phủ do Bộ trưởng Y tế ký gửi Đoàn Giám sát của Quốc Hội thì giai đoạn 2011 - 2016 ngành Y tế đã cấp 152.109 Giấy Tiếp nhận hồ sơ công bố hợp quy (GTN)/GXN, trong đó các tỉnh, TP chỉ cấp khoảng 7000 giấy (4,6%), còn khoảng 145.000 giấy (95, 4%) do VFA cấp. Thực tế này cho thấy lý do BYT đưa ra để duy trì việc cấp GXN là không xác đáng.
Vấn đề Quy quy định ATTP tương đương Quy chuẩn kỹ thuật
Khoản 3 Điều 3 luật ATTP quy định nguyên tắc quản lý ATTP là trên cơ sở Quy chuẩn kỹ thuật (QCVN) và quy định do cơ quan có thẩm quyền ban hành (ở đây là BYT). BYT cho rằng quy định của BYT về ATTP là tương đương QCVN nên đối với những sản phẩm chưa có QCVN thì phải làm thủ tục Công bố phù hợp quy định ATTP tương tự như thủ tục Công bố hợp quy. Lập luận này là khiên ngưỡng, không đúng.
Mặc dù đều do BYT ban hành, nhưng QCVN được điều chỉnh bởi luật TCQCKT, quy định của BYT không phải đối tượng điều chỉnh của luật TCQCKT nên không thể ép áp dụng thủ tục công bố hợp quy cho việc tuân thủ quy định của BYT. Nếu quy định tương đương QCVN thì luật ATTP nói riêng, các luật quản lý chuyên ngành nói chung không cần quy định phải tuân thủ QCVN, chỉ cần quy định tuân thủ Quy định của các Bộ là đủ. Thậm chí cũng không cần ban hành luật TCQCKT.
Cấp GXN không phải là giải pháp đảm bảo hiệu quả quản lý
Báo cáo số 37 đánh giá giải pháp này “không phù hợp với thông lệ quốc tế, ít hiệu quả trong triển khai trong thực tiễn”, ngược lại, là sơ hở có thể bị lợi dụng để hợp pháp hoá thực phẩm không an toàn. Căn cứ:
- Việc cấp GXN, như đánh giá tại Báo cáo số 37 dẫn trên, chủ yếu dựa vào hồ sơ do doanh nghiệp nộp, trong đó, thành phần quan trọng nhất là bản kết quả kiểm nghiệm, nhưng mẫu kiểm nghiệm lại do doanh nghiệp tự lấy và cung cấp nên không thể đảm bảo kết quả kiểm nghiệm phản ánh đúng chất lượng lô hàng.
- Báo cáo 37 cũng cho biết, giai đoạn 2011 - 2016, tỷ lệ các lô hàng do BYT quản lý không đạt quy định chỉ 0,18%, một tỷ lệ vô cùng nhỏ, không tương xứng với chi phí của nhà nước và doanh nghiệp cho việc này.
Cấp GXN không phải là giải pháp đảm bảo ATTP cho người tiêu dùng, ngược lại, gây tổn hại cho người tiêu dùng
- GXN chỉ xác nhận “phù hợp quy định ATTP”, không xác nhận sản phẩm đảm bảo an toàn khi sử dụng; người công bố cũng chỉ phải “chịu trách nhiệm về tính phù hợp của sản phẩm đã công bố”, không phải chịu trách nhiệm khi sử dụng có an toàn không.
- Giá cả mà người tiêu dùng phải trả phải gánh thêm khoản chi phí rất lớn phát sinh từ việc cấp GXN này (khoảng 2.725 tỷ đồng và chi phí cho khoảng 1,8 triệu ngày công mỗi năm).
- Người tiêu dùng có thể mất cảnh giác với thực phẩm không an toàn do thấy đã được BYT xác nhận.
Vấn đề gây phiền hà, sách nhiễu
Các luật quản lý chuyên ngành (QLCN) đều nghiêm cấm gây phiền hà, sách nhiễu trong hoạt động QLCN, nhưng thực tế cho thấy, việc cấp GXN có nhiều biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp, như:
- Không tích cực ban hành các QCVN, cứ để tình trạng quản lý không có chuẩn, nhập nhèm, doanh nghiệp không biết thế nào là đúng, là đủ, là phù hợp để tuân thủ. Trong suốt gần 7 năm kể từ khi có luật ATTP, BYT chỉ ban hành được 32 QCVN (không kể 22 QCVN được ban hành trước luật ATTP), trong khi đó có hàng nghìn sản phẩm cần quản lý.
- Tình trạng hầu hết hồ sơ bị yêu cầu bổ sung, không chỉ 1 lần, mà thường là nhiều lần: Theo số thứ tự cấp GXN năm 2017 thì đến hết tháng 7/2017, VFA cấp được khoảng 26.500 GXN, trong khi đó, theo số liệu trên Hệ thống cấp GTN/GXN của VFA thì thường xuyên có khoảng 15.000 hồ sơ chờ tiếp nhận, chờ bổ sung...(tương đương 56,6% tổng số GXN được cấp 7 tháng đầu năm) , trong đó, số lượng hồ sơ chờ bổ sung luôn luôn khoảng 10.000 hồ sơ, tức là hầu hết hồ sơ đều phải bổ sung. Tình trạng này chỉ có thể giải thích là Quy định của BYT là mập mờ, không minh bạch, không rõ ràng khiến DN không thể nào hiểu và làm đúng theo yêu cầu của VFA, hoặc VFA cố tình gây sách nhiễu DN (tình trạng tuỳ tiện bắt bẻ, yêu cầu).
- Thời điểm yêu cầu bổ sung hồ sơ thường là ngày những cuối cùng của thời hạn cấp GXN.
Căn cứ thực tiễn trên, đề nghị bãi bỏ chế độ cấp GXN phù hợp quy định ATTP. Các doanh nghiệp tuân thủ quy định của BYT về thành phần, hàm lượng các chất bằng cách gửi thông báo cho BYT, công bố trên nhãn hàng, bao bì, tài liệu kèm theo sản phẩm như quy định tại Điều 23 luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
(vasep.com.vn) Thị trường cá tuyết và cá haddock đang chịu tác động mạnh từ các yếu tố địa chính trị, gồm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Nga và sự thay đổi trong chính sách thuế của Trung Quốc. Những diễn biến này khiến nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu trở nên bất ổn, gia tăng rủi ro cho các nhà xuất khẩu của Na Uy.
Bất chấp căng thẳng thương mại leo thang với Hoa Kỳ, ngành tôm Ấn Độ vẫn ghi nhận đà tăng trưởng mạnh trong năm tài chính 2026, theo Economic Times. Dữ liệu từ CareEdge Ratings cho thấy trong năm tháng đầu năm tài chính, xuất khẩu tôm của Ấn Độ tăng 18% về giá trị, lên 2,43 tỷ USD, và tăng 11% về khối lượng, đạt 348.000 tấn.
(vasep.com.vn) Từ ngày 8 đến 12/12/2025, Ủy ban Thủy sản Nga – Na Uy sẽ tiến hành vòng đàm phán quan trọng trong bối cảnh hoạt động khai thác cá tuyết tại Biển Barents đang chịu tác động lớn từ các biện pháp trừng phạt và căng thẳng chính trị. EU và Na Uy trước đó đã áp lệnh hạn chế đối với hai doanh nghiệp Nga là Norebo và Murman Seafood, làm gián đoạn truyền thống hợp tác và chia sẻ ngư trường giữa hai nước.
(vasep.com.vn) Dự án xây dựng một nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản đang được triển khai tại vùng Saratov, đánh dấu bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của khu vực. Công trình đặt tại quận Balashovsky, với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ ruble và dự kiến hoàn thành vào năm 2026.
(vasep.com.vn) Chính phủ Brazil dự kiến sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc liệu cá rô phi có bị xếp vào danh mục loài ngoại lai xâm lấn hay không vào năm 2026. Trước đó, vào tháng 10/2025, Ủy ban Đa dạng Sinh học Quốc gia (Conabio), trực thuộc Bộ Môi trường, đã đưa cá rô phi vào Danh sách chính thức các loài ngoại lai xâm lấn. Việc phân loại này chưa đồng nghĩa với lệnh cấm nuôi, nhưng đã làm dấy lên tranh luận trong ngành, khi cơ quan môi trường cảnh báo rằng cá rô phi đang xuất hiện ở nhiều con sông ngoài vùng nuôi, có nguy cơ gây mất cân bằng sinh thái.
(vasep.com.vn) Giá ghẹ xanh (blue swimming crab – BSC) và ghẹ đỏ (red swimming crab – RSC) trên thị trường Mỹ vẫn duy trì ở mức kỷ lục, dù ngành nhập khẩu vừa nhận được “phao cứu sinh” tạm thời từ Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ (CIT) đối với lệnh cấm nhập khẩu liên quan đến Đạo luật Bảo vệ Động vật Có vú Biển (MMPA).
(vasep.com.vn) Trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành tôm Ấn Độ trải qua một trong những giai đoạn nhiều biến động nhất của thập kỷ. Sản lượng xuất khẩu tăng nhẹ nhưng phân hóa mạnh theo từng tháng, giá trị xuất khẩu tăng cao hơn sản lượng, trong khi cấu trúc thị trường chuyển dịch nhanh chóng dưới tác động của cú sốc thuế quan tại Mỹ.
(vasep.com.vn) Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) đã đặt ra tổng sản lượng đánh bắt được (TAC) đối với cá cơm (Engraulis ringens) và cá cơm trắng (Anchoa nasus) ở vùng biển miền trung bắc Peru là 1,63 triệu tấn cho mùa đánh bắt thứ hai vào năm 2025.
(vasep.com.vn) Nhập khẩu cá minh thái đông lạnh của Hàn Quốc trong tháng 10 đạt 6.391 tấn, giảm 61% so với mức 16.488 tấn của cùng kỳ năm 2023. Tính lũy kế 10 tháng đầu năm, Hàn Quốc nhập khẩu 101.521 tấn, thấp hơn 17% so với 121.625 tấn của cùng kỳ năm trước.
Sáng 2/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) chủ trì phiên họp lần thứ 24 của Ban Chỉ đạo, kết nối trực tuyến với 21 tỉnh, thành phố ven biển.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn