Ngày 30/12/2019, Bộ NN&PTNT (Bộ NN) đã ra Quyết định số 5051/QĐ-BNN-PC ban hành kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 và giao Vụ Pháp chế chủ trì xây dựng Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2018/TT-BNNPTNT ban hành bảng mã số HS đối với danh mục hành hóa thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ NN.
Ngày 25-26/01/2021, Bộ NN&PTNT đã tổ chức tổ chức họp rà soát, thẩm định dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 15/2018/TT-BNNPTNT ban hành bảng mã số HS đối với hàng hóa thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ.
Tại cuộc họp này, chuyên gia của Dự án hỗ trợ kỹ thuật tạo thuận lợi thương mại (TFP) (Dự án do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ), ông Phạm Thanh Bình đã có bài tham luận góp ý rất sát thực cho các nội dung dự thảo thông tư thay thế Thông tư 15/2018.
Bản tin Thương mại Thủy sản xin giới thiệu ý kiến tham luận này của ông Bình.
Đại diện Dự án TFP nhất trí với nội dung của dự thảo. Dự thảo đã được xây dựng công phu, chu đáo. Nội dung thông tư đã thể hiện việc quán triệt đầy đủ chỉ đạo của Chính phủ tại các nghị quyết liên quan từ năm 2015 đến nay. Cách trình bày ngắn gọn, súc tích, rõ ý, dễ hiểu.
1. Về Tờ trình
Chúng tôi đồng tình về Mục đích ban hành thông tư này, đồng thời đề nghị bổ sung như sau:
Ở Mục đích thứ hai Tờ trình nêu: Bảo đảm tính phù hợp, thống nhất, đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là phù hợp với các Luật mới ban hành như: Luật Thủy sản, Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi…
Đề nghị bổ sung vào mục đích này nội dung: Bảo đảm tính phù hợp, thống nhất, đồng bộ với Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam ban hành kèm theo Thông tư 65/2017/TT-BTC Thông tư 65/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Lý do: Hiện nay có tình trạng doanh nghiệp khai mã số HS theo quy định của Bộ quản lý chuyên ngành (bao gồm Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), nhưng cơ quan Hải quan lại áp vào mã khác.
Đề nghị bổ sung Mục đích thứ 4 là, pháp luật hóa chỉ đạo của Chính phủ về cải cách toàn diện các quy định về quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại các nghị quyết 19/NQ-CP, 02/NQ-CP, 99/NQ-CP và một số nghị quyết liên quan khác.
Lý do: Các vấn đề của thông tư này nằm trong các nội dung chỉ đạo của Chính phủ trong nhiều nghị quyết từ năm 2015 đến nay và dự thảo Thông tư cũng thể hiện rõ tinh thần này.
2. Về nội dung dự thảo Thông tư
(1) Khoản 4 Điều 1, đề nghị bổ sung một đoạn cho chính xác. Sau khi bổ sung, khoản 4 có nội dung như sau:
“4. Việc kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện theo đề nghị của doanh nghiệp phục vụ việc thông quan hàng hóa tại nước nhập khẩu”.
(2) Đề nghị bổ sung khoản 5, Điều 1 như sau:
“5. Mặt hàng nhập khẩu thuộc danh mục quản lý chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nhưng không sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp thì không phải kiểm tra chuyên ngành theo quy định tại Thông tư này”.
Lý do: Đây là một trong những vướng mắc mà các doanh nghiệp và cơ quan Hải quan thường gặp khi làm thủ tục nhập khẩu một số mặt hàng, ví dụ: Mặt hàng Diammonium phosphate nhưng không dùng làm phân bón, mà dùng trong công nghiệp; hoặc Mặt hàng Zeolite, mã số HS 2842.10.00 nhưng không sử dụng trong môi trường nông nghiệp và thủy sản, mà dùng làm nguyên liệu sản xuất bột giặt.
(3) Đề nghị bổ sung 1 Điều với nội dung như sau:
“Điều... Sửa đổi phương thức “kiểm tra sau thông quan” thành phương thức “kiểm tra trước thông quan” đối với mặt hàng nhập khẩu là “Giống vật nuôi” quy định tại điểm 2, “Giống thủy sản” quy định tại điểm 3, Phụ lục kèm theo Thông tư 14/2018/TT-BNNPTNT ngày 29/10/2018 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn”.
Lý do: Phương thức kiểm tra quy định dự thảo thông tư này (nếu sau khi thảo luận vẫn giữ như dự thảo) khác với phương thức kiểm tra quy định tại Thông tư 14/2018/TT-BNNPTNT.
(4) Đưa vào Thông tư này một số quy định nhằm giảm thiểu danh mục hàng hoá phải kiểm tra chuyên ngành thuộc trách nhiệm quản lý của BN&NPTNT
Từ nhiều năm nay, tại các nghị quyết đã nêu, Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu cắt giảm mạnh mẽ danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành. Các Bộ quản lý chuyên ngành (bao gồm Bộ NNPTNT) đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện chỉ đạo này. Tuy nhiên, theo đánh giá của các doanh nghiệp, diện hàng hóa phải kiểm tra vẫn còn rất lớn, trong đó có nhiều trường hợp không cần thiết hoặc quá mức cần thiết. Cụ thể:
Theo quy định tại Luật Thú y, thì các loại sản phẩm hàng hóa nhập khẩu thuộc diện phải kiểm dịch động vật chỉ bao gồm động vật, sản phẩm động vật trên cạn và thủy sản có trong danh mục. “Sản phẩm động vật”, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thú y, thì chỉ bao gồm các bộ phận, các phần của cơ thể động vật, thủy sản. Luật Thú y không quy định sản phẩm chế biến từ “sản phẩm động vật” hoặc sản phẩm có chứa “sản phẩm động vật” thuộc diện phải kiểm dịch động vật. Chương 3 Luật An toàn thực phẩm Luật An toàn thực phẩm về điều kiện đảm bảo an toàn đối với thực phẩm cũng chỉ quy định thực phẩm tươi sống có nguồn gốc từ động vật mới phải có chứng nhận vệ sinh thú y của cơ quan thú y (Điều 11). Đối với thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn chỉ phải đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị trường (Điều 12).
Tuy nhiên, quy định về kiểm dịch đối với “sản phẩm động vật” đang được giải thích và áp dụng theo hướng sản phẩm chế biến từ “sản phẩm động vật” hoặc sản phẩm có chứa “sản phẩm động vật” (kể cả loại bao gói sẵn) cũng thuộc diện phải kiểm dịch động vật. Hay nói cách khác, khái niệm “sản phẩm động vật” đã được mở rộng quá mức quy định tại Luật Thú y.
Khoản 3 Điều 3 Luật Thú y đưa “sơ chế” và “chế biến” vào chung một khái niệm. Trong khi, đây vốn là hai khái niệm với các nội hàm khác nhau. Tham khảo Điều 2 Luật An toàn thực phẩm thấy: khái niệm “chế biến” được quy định tại khoản 4, còn khái niệm “sơ chế” được quy định tại khoản 16. Bất cập trên của Luật Thú y đặt ra nhu cầu cần giải thích thêm về khái niệm này.
Việc mở rộng khái niệm “sản phẩm động vật” và thiếu vắng giải thích đối với khải niệm “sơ chế, chế biến” như đã nêu trên là nguyên nhân quan trọng làm tăng diện hàng hóa phải kiểm dịch động vật, cản trở nỗ lực cắt giảm danh mục hàng hóa, tỷ lệ lô hàng phải kiểm tra chuyên ngành.
Vì vậy, để mở đường cho việc cắt giảm danh mục hàng hóa phải kiểm dịch động vật, đề nghị:
- Quy định tại Thông tư này: Đối tượng kiểm dịch động vật bao gồm động vật, sản phẩm động vật trên cạn và thủy sản có trong danh mục, không bao gồm sản phẩm chế biến từ “sản phẩm động vật”
- Trên cơ sở tham khảo quy định tại Điều 2 Luật An toàn thực phẩm, giải thích thêm cụm từ “sơ chế, chế biến” quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Thú y theo hướng tách biệt thành 2 khái niệm.
(5) Hài hòa hóa các loại kiểm tra chuyên ngành thuộc trách nhiệm quản lý của BNN&PTNT
Theo quy định của các luật quản lý chuyên ngành hiện hành, BNNPTNT chịu trách nhiệm thực hiện 3 loại kiểm tra chuyên ngành là kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm tra chất lượng đối với một số loại hàng hóa.
Trên thực tế, có một số loại hàng hóa chịu nhiều loại kiểm tra chuyên ngành của Bộ, như: thực phẩm tươi sống vừa phải kiểm dịch động vật, vừa phải kiểm tra an toàn thực phẩm; sản phầm làm thức ăn chăn nuôi, thủy sản vừa phải kiểm dịch động vật, vừa phải kiểm tra chất lượng; sản phẩm vừa làm thức ăn chăn nuôi, thủy sản, vừa làm thực phẩm phải thực hiện 3 loại kiểm tra là kiểm dịch động vật, kiểm tra an toàn thực phẩm, kiểm tra chất lượng.
Hiện trạng thủ tục kiểm tra chuyên ngành đối với các mặt hàng trên: Về cơ quan kiểm tra, BNNPTNT đã thực hiện việc tập trung vào một đầu mối và tiếp tục hoàn thiện tại Thông tư này. Tuy nhiên, về thủ tục, hồ sơ thì vẫn còn là 3 thủ tục, 3 loại hồ sơ.
Để cắt giảm thủ tục hành chính, đề nghị nghiên cứu hài hòa hóa 3 loại kiểm tra này thành 1 loại kiểm tra, theo đó, chỉ 1 thủ tục, 1 bộ hồ sơ, 1 cơ quan kiểm tra.
3. Về Phụ lục II - Bảng mã số HS đối với Danh mục hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành trước thông quan (Phụ lục II) và Phụ lục III - Bảng mã số HS đối với Danh mục hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành sau thông quan (Phụ lục III) thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (BNNPTNT)
Tại các Phụ lục này, đề nghị:
- Loại bỏ mã “- - - loại khác’ trong mã “- - loại khác”, mã “- - - - loại khác” trong mã “- - - loại khác” (trừ động vật, thủy sản và các sản phẩm động vật, thủy sản tươi sống, đông lạnh) ra khỏi danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành.
- Loại bỏ các sản phẩm có “chứa” sản phẩm động vật (sữa, thịt, trứng...), sản phẩm bao gói sẵn ra khỏi danh mục hàng hóa phải kiểm dịch động vật.
- QCVN, TCVN áp dụng được ghi chung tại cột của mã 4 là chưa hợp lý, bởi không phải tất cả các mã chi tiết 8 số đều áp dụng các QCVN, TCVN đó. Đề nghị: Trường hợp QCVN, TCVN không áp dụng cho toàn bộ các mã 4 số thì QCVN, TCVN áp dụng được ghi vào cột này của mã 8 số.
- Đề nghị thêm cột “hình thức kiểm tra” (kiểm tra hồ sơ; kiểm tra cảm quan,; thử nghiệm, phân tích tại phòng thí nghiệm).
Lý do:
+ Đây là 3 hình thức kiểm tra theo thông lệ quốc tế.
+ Tạo sự minh bạch, chủ động cho doanh nghiệp
+ Việc kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm được áp dụng dối với tất cả các lô hàng, gây cảm giác thủ tục hành chính nặng nề. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp kiểm dịch là kiểm tra hồ sơ và kiểm tra cảm quan. Có thêm cột này sẽ giảm cảm giác nặng nề cho doanh nghiệp.
4. Về Phụ lục III - Bảng mã số HS đối với Danh mục hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành sau thông quan
Theo quy định tại Thông tư 14/2018/TT-BNNPTNT, việc kiểm tra chuyên ngành của BNNPTNT đối với hai nhóm mặt hàng giống vật nuôi (ngựa, bò, trâu, lợn…) và giống thủy sản được thực hiện sau thông quan. Nay, theo dự thảo Thông tư này thì việc kiểm tra được thực hiện trước thông quan. Đề nghị cân nhắc giữ nguyên quy định như Thông từ 14/2018/TT-BNNPTNT. Nếu vẫn thay đổi thì:
- Cần làm rõ lý do, bởi sự thay đổi có tính thụt lùi về mặt cải cách thủ tục hành chính này trái ngược với chỉ đạo của Chính Phủ tại các nghị quyết 19/NQ-CP, 02/NQ-CP và một số nghị quyết liên quan khác từ 2015 đến nay.
- Bổ sung một điều vào Thông tư này với nội dung như đã nêu ở điểm 2 trên đây.
(vasep.com.vn) Thị trường cá tuyết và cá haddock đang chịu tác động mạnh từ các yếu tố địa chính trị, gồm lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Nga và sự thay đổi trong chính sách thuế của Trung Quốc. Những diễn biến này khiến nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu trở nên bất ổn, gia tăng rủi ro cho các nhà xuất khẩu của Na Uy.
Bất chấp căng thẳng thương mại leo thang với Hoa Kỳ, ngành tôm Ấn Độ vẫn ghi nhận đà tăng trưởng mạnh trong năm tài chính 2026, theo Economic Times. Dữ liệu từ CareEdge Ratings cho thấy trong năm tháng đầu năm tài chính, xuất khẩu tôm của Ấn Độ tăng 18% về giá trị, lên 2,43 tỷ USD, và tăng 11% về khối lượng, đạt 348.000 tấn.
(vasep.com.vn) Từ ngày 8 đến 12/12/2025, Ủy ban Thủy sản Nga – Na Uy sẽ tiến hành vòng đàm phán quan trọng trong bối cảnh hoạt động khai thác cá tuyết tại Biển Barents đang chịu tác động lớn từ các biện pháp trừng phạt và căng thẳng chính trị. EU và Na Uy trước đó đã áp lệnh hạn chế đối với hai doanh nghiệp Nga là Norebo và Murman Seafood, làm gián đoạn truyền thống hợp tác và chia sẻ ngư trường giữa hai nước.
(vasep.com.vn) Dự án xây dựng một nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản đang được triển khai tại vùng Saratov, đánh dấu bước đi quan trọng trong chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của khu vực. Công trình đặt tại quận Balashovsky, với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ ruble và dự kiến hoàn thành vào năm 2026.
(vasep.com.vn) Chính phủ Brazil dự kiến sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc liệu cá rô phi có bị xếp vào danh mục loài ngoại lai xâm lấn hay không vào năm 2026. Trước đó, vào tháng 10/2025, Ủy ban Đa dạng Sinh học Quốc gia (Conabio), trực thuộc Bộ Môi trường, đã đưa cá rô phi vào Danh sách chính thức các loài ngoại lai xâm lấn. Việc phân loại này chưa đồng nghĩa với lệnh cấm nuôi, nhưng đã làm dấy lên tranh luận trong ngành, khi cơ quan môi trường cảnh báo rằng cá rô phi đang xuất hiện ở nhiều con sông ngoài vùng nuôi, có nguy cơ gây mất cân bằng sinh thái.
(vasep.com.vn) Giá ghẹ xanh (blue swimming crab – BSC) và ghẹ đỏ (red swimming crab – RSC) trên thị trường Mỹ vẫn duy trì ở mức kỷ lục, dù ngành nhập khẩu vừa nhận được “phao cứu sinh” tạm thời từ Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ (CIT) đối với lệnh cấm nhập khẩu liên quan đến Đạo luật Bảo vệ Động vật Có vú Biển (MMPA).
(vasep.com.vn) Trong 9 tháng đầu năm 2025, ngành tôm Ấn Độ trải qua một trong những giai đoạn nhiều biến động nhất của thập kỷ. Sản lượng xuất khẩu tăng nhẹ nhưng phân hóa mạnh theo từng tháng, giá trị xuất khẩu tăng cao hơn sản lượng, trong khi cấu trúc thị trường chuyển dịch nhanh chóng dưới tác động của cú sốc thuế quan tại Mỹ.
(vasep.com.vn) Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) đã đặt ra tổng sản lượng đánh bắt được (TAC) đối với cá cơm (Engraulis ringens) và cá cơm trắng (Anchoa nasus) ở vùng biển miền trung bắc Peru là 1,63 triệu tấn cho mùa đánh bắt thứ hai vào năm 2025.
(vasep.com.vn) Nhập khẩu cá minh thái đông lạnh của Hàn Quốc trong tháng 10 đạt 6.391 tấn, giảm 61% so với mức 16.488 tấn của cùng kỳ năm 2023. Tính lũy kế 10 tháng đầu năm, Hàn Quốc nhập khẩu 101.521 tấn, thấp hơn 17% so với 121.625 tấn của cùng kỳ năm trước.
Sáng 2/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) chủ trì phiên họp lần thứ 24 của Ban Chỉ đạo, kết nối trực tuyến với 21 tỉnh, thành phố ven biển.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn