Lợi thế và tiềm năng
Thách thức cần vượt qua
Tuy nhiên, để phát triển và đạt được mục tiêu 10 tỷ USD xuất khẩu tôm vào năm 2025, ngành tôm nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức, những thách thức lớn nhất đó là:
Dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ
Các bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy, phân trắng, bệnh còi… đã và đang là mối nguy gây rủi ro lớn nhất cho nghề nuôi tôm ở nước ta. Năm 2011 cả nước có 42.200 ha, năm 2013 có 46.093 ha nuôi tôm bị hoại tử gan tụy, trong đó Sóc Trăng có 23.371 ha, Bạc Liêu 16.919 ha, Trà Vinh 12.224 ha. Năm 2016, chỉ tính riêng 3 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang diện tích nuôi tôm bị bệnh là 188.000 ha. Nguyên nhân chính gây dịch bệnh trên tôm nuôi như hiện nay là do hạ tầng các vùng nuôi tôm không đáp ứng yêu cầu quản lý môi trường nuôi tôm, và tôm giống không đảm bảo chất lượng.
Hầu hết các công trình cấp, thoát nước ở các vùng nuôi không đảm bảo cung cấp đủ, kịp thời nguồn nước đạt yêu cầu chất lượng cho nuôi tôm, nước thải, bùn thải từ ao nuôi tôm không được xử lý đúng yêu cầu bảo vệ môi trường. Về tôm giống, hàng năm cả nước sản xuất khoảng 100 tỷ con giống, cơ bản đáp ứng nhu cầu về số lượng, nhưng tỷ lệ con giống đạt chất lượng (sinh trưởng tốt, không mang tác nhân gây bệnh) còn rất thấp do phần lớn con giống được sản xuất trong các trại giống có cơ sở vật chất và quy trình vận hành không đảm bảo an toàn sinh học, sử dụng tôm bố mẹ từ khai thác tự nhiên (tôm sú) và nhập khẩu (tôm thẻ chân trắng) không kiểm soát được chất lượng tôm bố mẹ đưa vào sản xuất.
Nếu không chủ động kiểm soát được dịch bệnh thì các chỉ tiêu nâng cao năng suất và sản lượng tôm nuôi sẽ không thành hiện thực. Dịch bệnh cũng dẫn đến việc người nuôi lạm dụng kháng sinh trong nuôi tôm, tăng giá thành sản xuất, gây ô nhiễm môi trường, và đặc biệt ảnh hưởng đến chất lượng tôm nguyên liệu chế biến xuất khẩu, tăng nguy cơ số lô hàng tôm xuất khẩu bị trả về, ảnh hưởng xấu đến uy tín, khó duy trì và phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm tôm Việt Nam.
Để nâng cấp hạ tầng các vùng nuôi tôm hiện có, xây dựng hạ tầng các vùng nuôi tôm mới, nâng cấp các trại sản xuất tôm giống đáp ứng yêu cầu sản xuất tôm đòi hỏi nguồn tài chính khổng lồ từ nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Giai đoạn 2011-2015 vốn đầu tư cho lĩnh vực thủy sản chỉ chiếm 7% tổng vốn đầu tư từ ngân sách trung ương cho ngành nông nghiệp, tổng số vốn đã bố trí đầu tư cho thủy sản là 5.682,5 tỷ đạt gần 50% vốn theo kế hoạch, trong đó vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản khoảng 3.200 tỷ đầu tư mới và nâng cấp hạ tầng cơ bản cho 103.000 ha nuôi trồng thủy sản tập trung. Tái cơ cấu ngành thủy sản giai đoạn 2016-2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trương điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tổng vốn đầu tư ngành nông nghiệp, vốn đầu tư cho thủy sản tăng đạt trên 10% tổng vốn đầu tư toàn ngành nông nghiệp. Với cơ cấu vốn kế hoạch cho thủy sản như vậy,chắc chắn không đáp ứng nhu cầu đầu tư hạ tầng cơ bản cần thiết cho nuôi trồng thủy sản tập trung nói chung, nuôi tôm nói riêng.
Chưa chủ động sản xuất tôm bố mẹ chất lượng trong nước
Hiện tại hàng năm nước ta phải nhập khẩu 180.000-200.000 tôm bố mẹ từ Hoa Kỳ, Singapore, Indonesia, Thái Lan. Tôm bố mẹ nhập khẩu giá thành cao, không chủ động về số lượng và chất lượng. Với nhu cầu nhập khẩu hiện tại, một số thời điểm khi vụ sản xuất tôm giống tập trung có nhu cầu cao về số lượng tôm bố mẹ, chúng ta đã gặp khó khăn về nguồn cung. Để có đủ tôm nguyên liệu chế biến xuất khẩu đạt 10 tỷ USD chúng ta phải có sản lượng tôm nuôi 1,8-2 triệu tấn/năm, như vậy hàng năm cần tới 500.000-600.000 tôm bố mẹ để đủ sản xuất tôm giống cho nhu cầu nuôi. Nếu không chủ động sản xuất tôm bố mẹ trong nước chúng ta không thể có đủ con giống đáp ứng nhu cầu nuôi để đạt các mục tiêu sản lượng và năng suất như mong muốn.
Trong hơn thập kỷ qua các Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, II, III và 1 vài doanh nghiệp đã triển khai một số nghiên cứu phát triển đàn tôm bố mẹ tôm sú và tôm thẻ chân trắng, nhưng vì những lý do khác nhau đến nay tôm bố mẹ phần lớn vẫn phụ thuộc nguồn khai thác tự nhiên và nhập nội. Để gia hóa, chọn giống đàn tôm bố mẹ đạt yêu cầu sản xuất không chỉ đòi hỏi được đầu tư thích đáng, tổ chức thực hiện khoa học, đồng bộ, mà còn cần cả thời gian tối thiểu để đủ thực hiện gia hóa, chọn giống trên 3-5 thế hệ tôm.
Tăng trưởng sản lượng trong nước và nhu cầu thị trường tôm có đáp ứng mục tiêu?
Năm 2016, theo Tổng cục thủy sản diện tích nuôi tôm cả nước là 694.645 ha, đạt sản lượng 657.282 tấn, trong đó tôm sú 263.853 tấn, tôm thẻ chân trắng 393.429 tấn, xuất khẩu tôm đạt 3.150 triệu USD chiếm 44% giá trị xuất khẩu toàn ngành thủy sản. Từ 2010 đến 2016, tốc độ tăng trưởng hàng năm về sản lượng tôm nuôi là 5,3%, tăng trưởng về giá trị xuất khẩu là 7,2%. Đặt mục tiêu đến trước 2025 đạt 10 tỷ USD xuất khẩu tôm, giá trị xuất khẩu tôm tăng gấp 3,12 lần trong 8-9 năm tới, hàng năm tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu tôm phải đạt khoảng 14%, và tốc độ tăng sản lượng tôm nuôi phải đạt 11-12 % năm. Tốc độ tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu tôm đều phải tăng gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2010-2016.
Trong những năm gần đây (2014-2016) trong tôm xuất khẩu có tôm nhập khẩu từ các nước Ấn Độ, Ecuador… Việt Nam nhập khẩu tôm năm 2014 là 477 triệu USD, năm 2015: 426 triệu USD, năm 2016: 377 triệu USD. Ước tính hàng năm khoảng 60.000 tấn tôm được nhập khẩu. Như vậy thực tế các năm 2014, 2015 và 2016, ước giá trị xuất khẩu từ tôm nuôi Việt Nam lần lượt là: 3,5 tỷ USD, 2,5 tỷ USD và 2,77 tỷ USD.
Giá tôm xuất khẩu trung bình dao động từ 7,89 đến 9,38 USD/kg biến động theo nguồn cung, giá thấp khi sản lượng tôm nuôi bị sụt giảm do dịch bệnh, sản lượng tôm biển đánh bắt thấp. Tổng sản lượng tôm toàn cầu năm 2011 đạt 4,1 triệu tấn, do vấn đề dịch bệnh xảy ra ở nhiều nước sản lượng tôm nuôi toàn cầu đang trong quá trình phục hồi, tuy nhiên đến 2016 mới đạt 3,57 triệu tấn. Các nước sản xuất tôm lớn như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc do vấn đề dịch bệnh vẫn chưa đạt sản lượng tôm nuôi năm 2011, đang nỗ lực và có các mục tiêu sản lượng lớn hơn 2011 trong các năm tiếp theo. Giá tôm xuất khẩu liệu còn giữ được khi tăng thêm 1,2-1,8 triệu tấn tôm từ Việt Nam cùng nguồn cung từ các nước sản xuất tôm lớn khác tăng cao? Trong bối cảnh cạnh tranh thị trường, phải tính đến các giải pháp hạ giá thành các khâu sản xuất tôm từ giống, nuôi, chế biến và làm tốt công tác phát triển thị trường tiêu thụ tôm.
Như vậy, mục tiêu 10 tỷ USD xuất khẩu tôm trước 2025 được nhiều người cho là kỳ vọng quá lớn. Tuy nhiên, mục tiêu này có thể đạt nếu ngành tôm Việt Nam tận dụng tốt cơ hội và lợi thế đang có, đồng thời sớm thực hiện các giải pháp vượt qua những thách thức cơ bản trên*.
(*. Bàn về các giải pháp vượt qua những thách thức để phát triển xuất khẩu tôm sẽ được tác giả trình bày trong bài viết tiếp theo)
Phạm Anh Tuấn
Ngoài việc đẩy mạnh xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp thủy sản đang mở rộng thị phần tại thị trường nội địa nhằm hoàn thành kế hoạch đề ra.
(vasep.com.vn) Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái giao các cơ quan chức năng liên quan xem xét, giải quyết 3 kiến nghị của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thủy sản.
(vasep.com.vn) Bộ trưởng Thủy sản Canada Diane Lebouthillier đã thông báo vào ngày 28/6 rằng lệnh cấm 32 năm đối với cá tuyết miền Bắc sẽ kết thúc trong năm nay, với hạn ngạch 18.000 tấn. Với việc quay trở lại nghề đánh cá thương mại, những người đánh cá ngoài khơi cũng được phép đánh bắt cá tuyết trở lại.
(vasep.com.vn)Theo chuyên gia nuôi trồng thủy sản Jin Niu, giáo sư tại Đại học Sun Yat-Sen, sản lượng thức ăn tôm của Trung Quốc đạt 1,824 triệu tấn vào năm 2023, tăng đáng kể so với 1,656 triệu tấn của năm trước đó.
(vasep.com.vn) Nhập khẩu tôm vào thị trường Mỹ bắt đầu tăng từ tháng 5, bất chấp quy định sơ bộ về thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá áp dụng lên các quốc gia xuất khẩu.
(vasep.com.vn)Một bài đánh giá được công bố trên Tạp chí Khoa học Thủy sản và Nuôi trồng Thủy sản đề xuất sử dụng đánh giá vòng đời (LCA) làm tiêu chuẩn để đánh giá tính bền vững của các thành phần thức ăn nuôi trồng thủy sản. Bài đánh giá được công bố trên tạp chí Reviews in Fisheries Science and Aquaculture đề xuất sử dụng LCA để đánh giá tính bền vững của các thành phần thức ăn nuôi trồng thủy sản.
(vasep.com.vn) Tổng cộng có 39 tổ chức từ Tây Phi và Na Uy đã kêu gọi chính phủ Na Uy cấm sử dụng dầu cá có nguồn gốc từ Tây Phi tại các trang trại nuôi cá hồi của quốc gia này. Một phần đáng kể dầu cá được sử dụng trong ngành cá hồi của Na Uy có nguồn gốc từ Tây Phi, góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong khu vực.
(vasep.com.vn) Trong khi một nhà sản xuất thức ăn thủy sản Trung Quốc báo cáo rằng họ kỳ vọng đạt lợi nhuận kỷ lục trong nửa đầu năm thì một nhà sản xuất khác lại dự đoán mức lỗ lớn hơn, do tình hình thị trường nuôi trồng thủy sản Trung Quốc đang gặp nhiều thách thức. Guangdong Yuehai Feeds Group đã nêu lý do thời tiết khắc nghiệt, thị trường hải sản ảm đạm và giá thức ăn chăn nuôi giảm là nguyên nhân dẫn đến hiệu suất suy yếu.
(vasep.com.vn) Trong một động thái mang tính bước ngoặt, ba quốc gia Tây Phi: Benin, Bờ Biển Ngà và Ghana đã hợp lực để bảo vệ tài nguyên biển của họ bằng cách thực hiện các mùa đóng cửa toàn diện cho toàn bộ nghề cá của họ. Nỗ lực phối hợp này đánh dấu một bước quan trọng hướng tới việc thiết lập một mùa đánh bắt cá khép kín trong khu vực, đảm bảo tính bền vững lâu dài của nghề cá.
VASEP - HIỆP HỘI CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
Chịu trách nhiệm: Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội
Đơn vị vận hành trang tin điện tử: Trung tâm VASEP.PRO
Trưởng Ban Biên tập: Bà Phùng Thị Kim Thu
Giấy phép hoạt động Trang thông tin điện tử tổng hợp số 138/GP-TTĐT, ngày 01/10/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông
Tel: (+84 24) 3.7715055 – (ext.203); email: kimthu@vasep.com.vn
Trụ sở: Số 7 đường Nguyễn Quý Cảnh, Phường An Phú, Quận 2, Tp.Hồ Chí Minh
Tel: (+84) 28.628.10430 - Fax: (+84) 28.628.10437 - Email: vasephcm@vasep.com.vn
VPĐD: số 10, Nguyễn Công Hoan, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
Tel: (+84 24) 3.7715055 - Fax: (+84 24) 37715084 - Email: vasephn@vasep.com.vn